Bộ Y tế: Chưa nên coi dịch Covid -19 là “bệnh lưu hành” ở thời điểm này
(HanoiTV) - Ngày 5/3, Bộ Y tế đã có báo cáo gửi Thủ tướng về tình hình dịch bệnh Covid -19 đồng thời xin ý kiến của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19 về việc điều chỉnh biện pháp cách ly F1 và F0 so với quy định hiện hành.
F1 được phép tham gia các công việc trực tiếp và trực tuyến
Theo đề xuất này của Bộ Y tế, F1 chỉ tự theo dõi sức khỏe 10 ngày, nếu đáp ứng một trong các điều kiện: Đã tiêm đủ liều vaccine Covid-19, liều cuối cùng ít nhất 14 ngày; từng là F0 khỏi bệnh trong ba tháng. F1 xét nghiệm PCR hoặc test nhanh vào ngày thứ 5, kể từ thời điểm tiếp xúc F0.
Trong thời gian tự theo dõi sức khỏe, F1 tuân thủ 5K, không tiếp xúc với người thuộc nhóm nguy cơ cao (người có bệnh nền; người trên 50 tuổi; phụ nữ có thai). F1 chưa tiêm đủ liều vaccine Covid-19, cách ly tại nhà hoặc nơi lưu trú 5 ngày; xét nghiệm một lần.
Đề xuất của Bộ Y tế đã có nhiều điều chỉnh về biện pháp cách ly F1 so với quy định hiện hành. Hồi tháng 2, Bộ Y tế quy định F1 đã tiêm đủ hai mũi vaccine hoặc là F0 khỏi bệnh trong ba tháng, phải cách ly 5 ngày. F1 chưa tiêm đủ liều hoặc chưa tiêm vaccine Covid-19 phải cách ly 7 ngày; tự theo dõi sức khỏe 3 ngày tiếp theo.
Đối với F0 không có triệu chứng, trong thời gian 7 ngày cách ly, được tự nguyện tham gia làm việc. Các đơn vị, địa phương bố trí cho F0 làm việc trực tuyến, không tiếp xúc với người xung quanh. F0 cũng được tham gia hỗ trợ chăm sóc, theo dõi, điều trị người nhiễm Covid-19 tại gia đình, tại cơ sở lưu trú hoặc bệnh viện; tuân thủ 5K.
F0 làm việc tại bệnh viện phải có biện pháp phòng hộ, thường xuyên xét nghiệm; không được chăm sóc hoặc tiếp xúc với người bị suy giảm miễn dịch hoặc có nguy cơ cao.
F1 được tham gia thực hiện các công việc cấp bách của đơn vị, địa phương bằng hình thức trực tuyến hoặc trực tiếp. Nếu đến cơ quan làm việc, F1 cần được bố trí khu vực riêng, đảm bảo khoảng cách, thoáng khí; không tập trung đông. F1 được di chuyển bằng phương tiện cá nhân từ nhà đến nơi làm việc; quá trình di chuyển không tiếp xúc với cộng đồng; đeo khẩu trang...

Sẽ đề xuất coi dịch bệnh COVID-19 là "bệnh lưu hành” vào thời điểm thích hợp
Trước ý kiến của một số nhà khoa học, chuyên gia về việc coi dịch Covid -19 là bệnh đặc hữu hay “bệnh lưu hành”, Bộ Y tế cũng trình bày tại phiên họp sáng 5/3 của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19. Theo đó, lãnh đạo Bộ Y tế cho biết: bệnh lưu hành, tiếng Anh là "endemic diseases", hay một số chuyên gia còn gọi là "bệnh đặc hữu" là sự xuất hiện một cách ổn định của bệnh dịch hoặc tác nhân gây bệnh trong một khu vực địa lý hoặc nhóm quần thể dân số nhất định; hoặc còn hướng đến một tỷ lệ mắc bệnh thường gặp của một bệnh dịch trong một khu vực hoặc quần thể dân số nhất định.
Bệnh lưu hành khi có một số tiêu chí cụ thể như sau: Có sự tồn tại thường xuyên tác nhân gây bệnh; Tồn tại quần thể cảm nhiễm và ổ chứa tác nhân gây bệnh; Bệnh dịch xảy ra ở một nhóm đối tượng cụ thể hoặc quần thể dân số trong địa bàn nhất định; Tỷ lệ mắc bệnh có tính ổn định và có thể dự báo được.
Đến nay, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vẫn coi COVID-19 trong tình trạng đại dịch và quan ngại tiếp tục xuất hiện các biến thể không lường trước được của virus SARS-CoV-2. Dịch bệnh tại nhiều nước trên thế giới diễn biến phức tạp, cần tiếp tục duy trì các hoạt động đáp ứng với đại dịch ở mức cao.
Trong nước, tuy tỷ lệ bệnh nặng, tử vong đã giảm nhiều so với giai đoạn trước nhưng số tử vong ghi nhận hàng ngày vẫn ở mức cao.
Bộ Y tế cũng đã trao đổi với các chuyên gia trong nước, các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Trung tâm Dự phòng và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (USCDC) nhận định đối với bệnh COVID-19 tại Việt Nam, cụ thể: Trong nước, virus SARS-CoV-2 đã ghi nhận ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước và số trường hợp nhiễm virus SARS-CoV-2 cũng đã được báo cáo ghi nhận tại tất cả các tỉnh, thành phố, tuy vậy dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chuyển tiếp giữa giai đoạn đại dịch sang giai đoạn "bệnh lưu hành". Tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 chưa ổn định và có sự khác biệt rất lớn giữa các địa phương, đặc biệt giữa các tỉnh, thành phố đã từng có tỷ lệ mắc cao trước đo và những tỉnh, thành phố mới có sự gia tăng mạnh trong thời gian gần đây.
Thêm vào đó, số trường hợp tử vong theo ngày vẫn còn rất cao so với những bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ từ vong hàng đầu trước đây.
Mặt khác, virus SARS-CoV-2 liên tục biến đổi và ghi nhận các biến thể mới như Alpha, Delta, Omicron; kể cả trong các biến thể cũng liên tục xuất hiện các biến thể phụ, ví dụ biến thể Omicron đã ghi nhận các biến thể phụ BA.1, BA.2, BA.3 và các biến thể này có thể né được miễn dịch, gây tái nhiễm; do đó tỷ lệ mắc tại các quần thể cảm nhiễm là rất khó xác định và chưa có tính ổn định.
Như vậy, trong thời gian này, Việt Nam chưa nên coi dịch bệnh COVID-19 là "bệnh lưu hành" và tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Tổ chức Y tế thế giới cũng như các tổ chức quốc tế, quốc gia khác theo dõi tình hình dịch COVID-19, cập nhật sự biến đổi của virus SARS-CoV-2 để có thể coi bệnh COVID-19 là "bệnh lưu hành" vào thời điểm thích hợp.