Chèo tàu Tổng Gối, lối hát riêng xứ Đoài

Chèo tàu Tổng Gối không thuộc hệ thống những làn điệu chèo truyền thống mà là nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng đất Tân Hội, có lề lối hát riêng, văn hóa riêng.

Nằm dọc theo dòng sông Nhuệ, cách trung tâm thành phố Hà Nội hơn 20km, mảnh đất Tân Hội, thuộc huyện Đan Phượng, Hà Nội, từ lâu đã nổi tiếng với di sản văn hóa phi vật thể độc đáo -  nghệ thuật diễn xướng chèo tàu Tổng Gối.

Những lời ca, điệu múa vùng đất xứ Đoài cổ thấm đượm bản sắc riêng. Chèo tàu là một hình thức diễn xướng độc nhất vô nhị, không chỉ mang giá trị lịch sử, văn hóa mà còn là biểu tượng cho đời sống tinh thần phong phú của người dân xứ Đoài.

Chèo tàu Tổng Gối là nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng đất Tân Hội, Ðan Phượng.

Tổng Gối vốn là vùng đất cổ thuộc châu thổ sông Hồng, vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm.

Theo tích xưa kể lại, tướng Văn Dĩ Thành là một người con thuộc dòng dõi quan lại triều Trần, sinh ra ở vùng Tổng Gối xưa. Là một người học rộng tài cao, thông thạo kinh sử, ông đã có công chiêu mộ binh lính, huấn luyện quân nhân chống lại giặc Minh. Dưới sự lãnh đạo tài tình của ông, quân giặc đã chịu nhiều tổn thất nặng nề. Sau khi ông hy sinh trên đất Tổng Gối, để ca ngợi ân đức của tướng Văn Dĩ Thành, người dân Tổng Gối đã sáng tạo ra loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo chèo tàu.

Cũng có tích kể rằng, ngày xưa, Hai Bà Trưng chống quân xâm lược nhà Hán, kéo quân qua Tổng Gối, thuyền bè qua lại trên sông Nhuệ, sông Hồng tập nập, khí thế hào hùng. Nhân dân tưởng nhớ công lao của Hai Bà, mô phỏng cảnh múa hát của quân tướng Hai Bà lúc nghỉ ngơi, đã sáng tạo ra loại hình nghệ thuật hát chèo tàu để tưởng niệm, nên hát chèo tàu còn được gọi là hát Tàu Tượng. Người tham gia hội hát đều là nữ hoặc nữ giả nam. Đây là nét riêng đặc sắc của hội hát chèo tàu.

Người tham gia hội hát đều là nữ hoặc nữ giả nam.

Những điệu hát được xướng lên từ những người phụ nữ ngợi ca lòng dũng cảm, chịu thương, chịu khó của người con gái đất Tổng Gối.

“Tháng giêng đóng đám ngoài đình

Trong dư năm tỉnh nức lòng người xem

Tướng cờ trương kiệu đôi bên

Giữa thì tàu hát bên thiềng đôi voi”

Chèo tàu ở Tân Hội có ba hình thức hát chính là hát khấn, hát xô và hát bỏ bộ.

Hát khấn là hát nghi lễ hầu thánh, là màn hát trình trang trọng và thiêng liêng. Các ca nhi trong trang phục truyền thống, với giọng hát ngọt ngào, sâu lắng sẽ dâng hương, dâng rượu và hát những bài ca ca ngợi công đức của Đức Thành Hoàng. Những bài hát này như lời tri ân, ghi nhớ công ơn to lớn của vị anh hùng đã hy sinh vì quê hương, đất nước.

Hát xô là một phần quan trọng trong Lễ hội Chèo tàu Tân Hội, góp phần tạo nên bầu không khí náo nhiệt, sôi động cho lễ hội. Hát xô thường diễn ra sau phần hát khấn. Các tàu (chiếc thuyền rồng) di chuyển theo đội hình, xếp hàng ngang hoặc dọc trên sông. Lời ca hát xô thường xoay quanh các chủ đề như ca ngợi quê hương, đất nước, tri ân các vị thần linh, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu..

Hát xô được chia thành hai phần: Hát cái và hát xô. Hát cái do cái tàu (tàu đi đầu) hát, thường là những câu hát dài, có giai điệu du dương, trầm bổng. Hát xô do các tàu con (tàu đi sau) hát đệm theo, thường là những câu hát ngắn, có giai điệu sôi động, náo nhiệt. Hát xô thường là những bài văn vần, thể lục bát, số lượng có khi từ 4 đến 70 câu. Phần hát do cái tàu đảm nhiệm, tương tự như lĩnh xướng. Phần xô là do các đào, kép và các nghệ nhân khác hát theo lời hát của cái tàu.

Hát bỏ bộ cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Điểm đặc biệt của hát bỏ bộ là sự giao lưu, đối đáp dí dỏm, tinh tế giữa các tàu (chiếc thuyền rồng) với tượng (tượng Thành Hoàng làng) và khán giả. Hát bỏ bộ thường diễn ra sau phần hát trình và hát xô. Khi hai tàu tiến đến trước tượng, các ca nhi bắt đầu cất tiếng hát đối đáp. Lời ca mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc, thể hiện niềm tự hào về quê hương, đất nước và mong ước về cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Nét đặc biệt khiến loại hình nghệ thuật này thu hút du khách chính là sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, lời ca và màn trình diễn.

Chèo tàu Tân Hội sử dụng nhiều loại nhạc cụ đa dạng hơn so với các loại hình chèo khác, tạo nên âm thanh phong phú và sinh động hơn. Âm nhạc chèo tàu ngoài việc chứa đựng những đặc trưng của dân ca cổ người Việt với những nét phóng khoáng, mộc mạc, mềm mại, tinh tế và duyên dáng thì còn tiếp thu, giao thoa và cộng hưởng cùng các loại dân ca khác (như: chèo, quan họ, hát xoan, hát ca trù, hát xẩm, hát trống quân…) để làm chất liệu cho mình.

Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt tiết tấu và tạo bầu không khí cho các phần trình diễn trong hát chèo tàu. Hát chèo tàu sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau, mỗi loại đều có vai trò và âm sắc riêng biệt. Một số nhạc cụ tiêu biểu có thể kể đến như: đàn tranh, nhị, trống, chiêng, sáo, tiêu, sênh tiền.

Sênh tiền là nhạc cụ độc đáo chỉ có trong hát chèo tàu Tổng Gối, góp phần tạo nên bản sắc riêng biệt cho loại hình nghệ thuật này.

Âm nhạc trong hát chèo tàu được thể hiện bởi một dàn nhạc gồm các nghệ nhân sử dụng nhạc cụ một cách điêu luyện, kết hợp nhịp nhàng với lời ca và màn trình diễn, tạo nên một tổng thể nghệ thuật hài hòa và ấn tượng.

Âm nhạc được chia thành hai loại chính:

Nhạc lễ được sử dụng trong các nghi thức tế lễ, rước kiệu, thể hiện sự trang nghiêm, thành kính. Nhạc lễ thường sử dụng các loại nhạc cụ như trống, chiêng, sáo, tiêu,...

Nhạc hội được sử dụng trong các phần trình diễn hát, múa, mang không khí vui tươi, náo nhiệt. Nhạc hội sử dụng nhiều loại nhạc cụ đa dạng hơn như đàn tranh, nhị, trống, phách, sênh tiền,...

Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt tiết tấu và tạo bầu không khí cho các phần trình diễn trong hát chèo tàu.

Hội hát chèo Tàu được tổ chức lần đầu vào năm 1683 và duy trì 25 năm một lần, chọn vào năm mưa thuận gió hòa, bốn thôn Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ và Phan Long của Tổng Gối được mùa.

Tài liệu cũ ghi lại, hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1922 và bị gián đoạn do chiến tranh. Đến năm 1998, hội được khôi phục lại. Hiện nay, hội chèo tàu cứ 5 năm được tổ chức một lần, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 tháng Giêng hàng năm, là một trong những lễ hội truyền thống độc đáo và thu hút đông đảo du khách hằng năm.

Năm 2015 là kỳ lễ hội được tổ chức với quy mô lớn nhất. Lễ hội Chèo tàu Tân Hội được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2017.

User
Ý KIẾN

Hồ Gươm không chỉ là một danh thắng nổi tiếng của Hà Nội, mà còn là di sản văn hóa, gắn liền với lịch sử ngàn năm văn hiến của mảnh đất Hà thành.

Tối 16/11, tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau tổ chức Lễ khánh thành và đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đối với công trình tượng đài kỷ niệm "Chuyến tàu tập kết ra Bắc năm 1954".

Đình làng Mui tại xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội, là di tích lịch sử có từ lâu đời, thờ 4 vị thành hoàng - những anh hùng từng sát cánh cùng Hai Bà Trưng trong cuộc chiến chống quân xâm lược Hán.

Đã từ lâu, đối với người dân Việt Nam khi nói đến hồ Gươm là lại nhớ đến tháp Rùa, cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn. Đây không chỉ là những điểm đến hấp dẫn gắn liền với văn hóa và lịch sử của người Hà Nội mà còn là nơi tham quan và thư giãn lý tưởng.

Phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhân dân quận Ba Đình đã gìn giữ di tích đền Cống Yên và những giá trị văn hoá tinh thần của cha ông để lại.

Tại đình Nhật Tân, quận Tây Hồ - di tích cổ kính nằm ven đê sông Hồng, có một cây sanh cổ thụ hàng ngày tỏa bóng mát. Cây di sản này đã gắn bó với biết bao thế hệ người dân nơi đây.

Thành cổ Sơn Tây là biểu tượng của vùng đất xứ Đoài. Với những bức tường đá ong đỏ sậm, rêu phong, công trình giao hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên và kiến trúc cổ kính, mang đậm dấu ấn văn hóa - lịch sử.

Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội và Việt Nam, nằm trên một bán đảo phía nam của hồ Tây, ở gần cuối đường Thanh Niên.

Chùa Đậu ở huyện Thường Tín, Hà Nội vẫn giữ nguyên nét trầm mặc, cổ kính. Không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo, nơi đây còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, tâm linh sâu sắc, là điểm đến quen thuộc của Phật tử, du khách khắp miền.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) vừa có văn bản đề xuất giải pháp bảo vệ, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, di vật tại chùa Xuân Lũng (huyện Lâm Thao, Phú Thọ).

Chỉ còn một tuần nữa là Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2024 sẽ chính thức quay trở lại. Những thiết kế sáng tạo gắn với chuyển đổi số, kinh tế số ngày càng nhận được sự quan tâm của cộng đồng. Bên cạnh đó, chủ trương di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp cũ ra khỏi Thủ đô cũng đã mở ra cơ hội để những cơ sở công nghiệp một thời chuyển đổi công năng.

Lăng đá Quận Vân ở thôn Nỏ Bạn được xây dựng từ năm 1733. Công trình là nơi an nghỉ của Quận công Đại giang Đỗ Bá Phẩm, từng làm trấn thủ Nam Sơn thời chúa Trịnh Giang.

Làng cổ Đường Lâm đã in hình bản đồ số Đường Lâm, với những địa điểm chủ chốt và có cả mã quét QR. Khi cầm trên tay tấm bản đồ, du khách sẽ biết làng cổ có những gì, nên tham quan những gì.

Không chỉ có bề dày truyền thống ngàn năm văn hiến, anh hùng, hòa bình và hữu nghị, Hà Nội còn là địa phương giàu có nhất cả nước về di sản văn hóa. Việc cải tạo, tu bổ và biến các di sản, di tích tại các khu phố cổ trở thành điểm du lịch đang là một trong những mục tiêu quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô.

Thông qua lăng kính nghệ thuật, đặc biệt là hội họa, di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được thổi hồn và tái hiện sống động, với những góc nhìn mới mẻ, đầy màu sắc.

Sống ở Thủ đô, gần như ai cũng đã từng đi qua và biết đến Bưu điện Hà Nội, hay còn gọi là Bưu điện Bờ Hồ và chiếc đồng hồ khổng lồ trên nóc tòa nhà ấy. Ngay từ khi chính thức đổ tiếng chuông đầu tiên, nó đã trở thành một phần trong cuộc sống, mang lại nhiều kỷ niệm, ký ức đẹp đẽ cho nhiều thế hệ người Hà Nội.

Lần đầu tiên có một công trường khai quật rộng với hơn 6.000 m² tại một ngôi làng cổ có niên đại khoảng 3.500 năm và cũng là lần đầu tiên phát hiện ra khu mộ tiền Đông Sơn.

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Phygital Labs và Trung tâm Công nghệ Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ xây dựng triển khai giải pháp du lịch trải nghiệm đa tương tác tại Hải Vân Quan.

Đền Bạch Mã xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, là cửa sông Tô Lịch thông với sông Hồng, còn nay là số nhà 76 - 78 phố Hàng Buồm (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).

Những tài liệu, hình ảnh quý về thành Cổ Loa đang được trưng bày tại Khu di tích Cổ Loa - huyện Đông Anh đã mang đến cho khách tham quan cái nhìn khái quát về giá trị lịch sử, văn hóa của thành Cổ Loa xưa. Triển lãm do Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội, Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa tổ chức.

Cột cờ Hà Nội còn có tên khác là Kỳ đài Hà Nội, nằm trong khuôn viên của Bảo tàng Quân sự Việt Nam, trên đường Điện Biên Phủ, quận Ba Đình, Hà Nội.

Đại diện Ủy ban Quốc tế Đại lễ Vesak Liên hợp quốc ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của núi Bà Đen (Tây Ninh) trong chuyến khảo sát các điểm tham quan dành cho phật tử trong Đại lễ Vesak 2025.

Ngoài Ô Quan Chưởng hiện còn khá vẹn nguyên, các cửa ô còn lại chỉ còn tên gọi, thay vào đó là những tuyến phố sôi động bán mua, tấp nập người xe. Thủ đô phát triển, ngày một hiện đại, không gian kiến trúc cửa ô rộng mở, vượt lên không gian 36 phố phường. Nhưng 5 cửa ô một thời sẽ mãi sâu đậm trong ký ức người Hà Nội.

Sáng 6/10, huyện Phúc Thọ long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 1985 năm Ngày Hai Bà Trưng hội quân, lập đàn thề, tế cờ khởi nghĩa và công bố điểm du lịch Di tích quốc gia đặc biệt đền Hát Môn.

Chỉ cần chậm lại một chút, sẽ cảm nhận được ẩn sâu dưới vẻ sôi động là một Hà Nội khác – một Hà Nội với chiều sâu văn hóa và di sản phong phú.

Trải qua những năm tháng lịch sử, Hà Nội ngày nay đang trở thành một thành phố hiện đại đầy năng động. Tuy nhiên, có những dấu ấn của Hà Nội xưa vẫn còn được lưu giữ cho tới nay trong ngôi nhà cổ số 87 Mã Mây.

Trong khuôn khổ Chương trình hợp tác truyền thống giữa Thành phố Hà Nội và Vùng Ile-de-France từ năm 2007, sáng 1/10, Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội và Đô thị cổ Provins ký kết thỏa thuận hợp tác lần thứ hai.

Nằm ở trung tâm Hồ Hoàn Kiếm, từ lâu Tháp Rùa đã trở thành hình ảnh quen thuộc với người dân Thủ đô Hà Nội nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.

Gần đây, bất cứ ai đi qua đường Hùng Vương, quận Ba Đình cũng đều bị thu hút và ấn tượng bởi cảnh quan, màu sắc rất mới của tòa nhà Phủ Chủ tịch. Đây là hiệu ứng ánh sáng được phát huy từ việc kết hợp màu sơn và đường nét kiến trúc đặc trưng của tòa nhà đã tạo ra cảnh quan vô cùng đẹp mắt.

Con đường di sản Nam Thăng Long - Hà Nội không chỉ đơn thuần là một hành trình du lịch, mà còn là một hành trình về nguồn cội, nơi kết nối những giá trị văn hóa và lịch sử của vùng đất Hà Nội. Mỗi điểm dừng chân không chỉ mang vẻ đẹp riêng mà còn chứa đựng những câu chuyện lịch sử, phong tục tập quán và tâm tư của người dân địa phương.

Nét kiến trúc độc đáo xưa cũ mang chất hoài niệm của khu phố cổ Hà Nội, chỉ còn bắt gặp khi chúng ta nhìn lên tầng hai của căn nhà. Thế nhưng những không gian lưng chừng còn sót lại ấy cũng đang dần biến mất bởi sự xâm chiếm, cơi nới của người dân.

Chùa Tảo Sách hay còn gọi là Tào Sách có tên chữ là Linh Sơn tự. Chùa tọa lạc ở số 386 đường Lạc Long Quân, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội; là một trong số ít những ngôi cổ tự ở Hà Nội vừa giữ được vẻ cổ kính, trang nghiêm không gian Phật đài.

UBND thành phố Hà Nội vừa có quyết định công nhận điểm du lịch Di tích quốc gia đặc biệt đền Hát Môn (thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội).

Phố cổ Hà Nội là một phức hợp di tích, di sản có giá trị lớn về văn hóa, lịch sử, kiến trúc của Thủ đô. Nhiều năm qua, các di tích di sản vô giá này đối mặt với nhiều thách thức lớn trong việc trùng tu, tôn tạo và bảo tồn.

Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang là một trong những điểm đến về du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Tuy nhiên, những năm qua việc cải tạo, sửa chữa các điểm du lịch ở đây chưa có tính liên kết, một số điểm du lịch đang có dấu hiệu quá tải… Trước thực trạng đó, huyện Đồng Văn đã xây dựng phương án cải tạo, chỉnh trang một cách đồng bộ nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.

Trở về từ chiến khu Việt Bắc, nơi đầu tiên mà Bác Hồ dừng chân là căn nhà của cụ Nguyễn Thị An tại làng Phú Gia (nay là phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Đến nay, ngôi nhà này trở thành Di tích lịch sử cấp Quốc gia và là "địa chỉ đỏ" giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.

Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia đặc biệt. Trong một sớm mùa thu nắng đẹp của Hà Nội, hãy trải nghiệm không gian Khu di tích Phủ Chủ tịch, dạo chơi trong vườn Bác, thăm Nhà sàn và Ao cá Bác Hồ, tìm về dấu chân Bác tại những không gian mộc mạc, giản dị mà vô cùng thân thương, ấm áp.

Ở Hà Nội có một nơi vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn hình ảnh của cuộc tổng khởi nghĩa 79 năm trước - như một "chứng nhân" của mùa thu năm ấy, đó là Quảng trường Nhà hát Lớn mà ngày nay mang tên Quảng trường Cách mạng Tháng Tám, hay Quảng trường 19/8.

Vào dịp nghỉ lễ Quốc khánh năm nay, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sẽ là một điểm đến ý nghĩa với du khách khi có thể tìm hiểu văn hoá Chăm-pa qua những hiện vật đặc sắc.

Từ tháng 8, di tích Hải Vân Quan được đưa vào khai thác sử dụng. Đây cũng là điểm dừng chân của du khách khi đến Huế và Đà Nẵng.

Ý tưởng phục dựng “Bát cảnh Tây Hồ” nhằm tạo ra những điểm đến hấp dẫn có thể coi là hướng đi độc đáo mà quận Tây Hồ đang dày công nghiên cứu.

Nhà lưu niệm 90 Thợ Nhuộm, nơi Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Trần Phú soạn Luận cương Chính trị, là một trong những di tích cách mạng quan trọng của Thủ đô Hà Nội.

Đây là cây bồ đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Rajendra Prasad - vị Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Ấn Độ trồng vào tháng 3/1959.

Trong số hàng chục di tích nổi tiếng ở Đường Lâm, có lẽ chùa Mía là di tích cổ nhất, đẹp nhất, tạo ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng khách thập phương.

Trong kỳ họp thứ 46 vừa qua, UNESCO đã thông qua đề xuất của Việt Nam về định hướng, tầm nhìn nghiên cứu, bảo tồn và phát triển Di sản thế giới Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long.

Đình Nam Hương - ngôi đình cổ hàng trăm năm tuổi, từ lâu đã trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân Hà Nội, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa lịch sử của Thủ đô.