Chiến tranh không phải trò đùa
Chúng ta đều hiểu chiến tranh là hy sinh, mất mát, đau thương. Chiến tranh không phải trò đùa. Ngày hôm nay, chúng ta cùng ôn lại những ký ức về một thời bom đạn để thêm trân trọng giá trị của hòa bình, độc lập, tự do và để thêm yêu quý hình ảnh cao đẹp của người lính.
Hôm nay là ngày 22/12, tròn 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong một ngày đầy ý nghĩa này, những dòng ký ức về một thời bi tráng của dân tộc, quê hương lại trở về. Nghĩ về người lính, ta thường liên tưởng đến những cuộc chiến tranh, trận mạc: sự xả thân, hy sinh. Nghĩ về người lính, ta càng nhân lên khát vọng hòa bình, càng thấy yêu hơn hình ảnh người lính trong hòa bình, những người luôn thường trực ý chí bảo vệ môi trường hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột. Không một ai, cả tôi và bạn lại không khát vọng hòa bình, căm ghét chiến tranh.
Chiến tranh là đau thương, chia ly, là mất mát và chết chóc. Hôm nay, tôi mời bạn cùng tôi xuôi theo dòng ký ức của một người, trở về một thời đạn bom, để thấy chiến tranh thực sự không phải trò đùa.
Nhớ lại những năm tháng chiến tranh. Tuổi thơ tôi vừa trọn những năm đế quốc Mỹ đem không quân, hải quân đánh phá, phong tỏa cơ sở hậu cần, giao thông miền Bắc. Quê tôi, xứ cồn chông bãi cát, nằm sát biển Đông. Dù không phải là trọng điểm cầu đường giao thông hay kho tàng bến bãi, nhưng đã nhiều lần chịu cảnh bom rơi đạn nổ. Tất cả những gì mà chiến tranh đem đến, người dân quê tôi đều hứng chịu, nếm trải. Đạn pháo từ tàu biển bắn vào. Đạn bom từ máy bay dội xuống. Những lần làng quê nhận tin dữ, những tờ giấy báo tử từ chiến trường gửi về.
Hàng ngày, chiếc máy bay do thám AD6 của không quân hải quân Mỹ bay dọc bờ biển. Lũ trẻ chúng tôi gọi loại máy bay này là máy bay bà già. Nó bay rất chậm, tiếng vè vè ù ù rất khó chịu. Phát hiện mục tiêu khả nghi là lượn vòng, xả đạn. Rồi bất kể ngày đêm, từng đợt máy bay ào ào từ biển vào, những loạt đạn phòng không vạch trời bay lên; những loạt bom dội xuống. Những lần bị hệ thống phòng không của ta đánh trả rát rạt, chúng cắt bom rồi chuồn nhanh. Trước khi trở lại tàu sân bay đậu ngoài khơi, chúng trút toàn bộ bom đạn xuống mặt đất, mặt biển.
Đêm đầu tháng 9 năm 1967, đó là một đêm trăng. Mới khoảng 10 giờ, vừa nghe pháo phòng không phía Hàm Rồng nổ giòn giã, đã nghe tiếng máy bay xẹt qua. Phía ngoài biển ù ù ì ì tiếng máy bay bà già. Rồi một loạt bom ba quả cắt chéo từ hướng tây bắc xuống đông nam. Quả bom thứ hai rơi xuống vườn nhà tôi, thổi bay hai cái nhà với toàn bộ tài sản. May mắn khi ấy cả nhà đã kịp xuống hầm. Quả bom đầu rơi phía tây bắc, cách nhà tôi khoảng 300 mét làm một anh thanh niên thiệt mạng.
Ròng rã đến gần ba tháng, gia đình tôi ở nhờ một gia đình xóm trong. Thầy tôi gom nhặt những gì còn sót lại, cùng với mọi thứ cây, tre trong vườn dựng lên hai căn nhà lấy chỗ tá túc. Năm ấy, tôi bước vào lớp 3. Sách vở chuẩn bị cho năm học mới bị mảnh bom xiên thủng, không cuốn nào còn nguyên vẹn. Mẹ tôi từ đấy mắc hội chứng sợ máy bay. Suốt nhiều năm sau đó, bà hầu như lấy hầm làm nhà. Chỉ nghe tiếng ì ì ù ù từ đâu đó là bà vội nháo nhào tìm hầm. Có lần tôi tựa trán vào cây cột nhà, kéo một đường từ phía trên xuống phía dưới, tạo ra cái thứ âm thanh âm âm u u, na ná tiếng động cơ máy bay từ xa, khiến bà giật mình, hốt hoảng chạy ra hầm trú ẩn. Nhận ra đó chỉ là trò đùa của con trai, bà buồn và giận tôi. Đến tận bây giờ, mỗi lần hồi tưởng về những ngày tháng đã qua, về thứ trò đùa quái ác ấy, tôi lại thêm một lần thầm hối lỗi.
Một năm trước trận bom, năm 1966, vào tháng 4, cũng một đêm trăng sáng. Chị gái đầu của tôi cũng bị bom Mỹ giết hại. Đang đêm, nghe tiếng máy bay chị bế con gái, lúc ấy mới hơn một tuổi ra hầm. Vừa đến cửa hầm thì bom nổ, một viên bi xuyên qua nách, vào tim. Trước đó, khi chị đang mang bầu con gái, anh rể tôi cũng bị trúng bom. Anh là công nhân ở mỏ Crommite Cổ Định, Thanh Hóa. Buổi trưa đi làm về, đang nghỉ trưa thì máy bay Mỹ đến thả bom.
Từ khi tôi bước vào lớp 1 đến nửa năm đầu cấp 3 là liên tục cảnh đầu đội mũ rơm, lưng mang nùn rơm, lại còn kè kè túi bông băng, thuốc đỏ, nước muối, nẹp tre... Lớp học thì nay chỗ này mai chỗ khác. Chủ yếu nằm khuất dưới tán cây sa mộc, tre, xoan. Xung quanh đắp đất cao, dày như thành lũy, có đường dẫn ra hào giao thông và hầm trú ẩn. Thời kỳ đầu, hầm trú ẩn đơn giản, gác tre, gỗ rồi đổ đất lên. Sau này, học kiểu hầm Triều Tiên, dựng tre gỗ như mái nhà, chìm sâu dưới đất, có hai cửa để thoát hiểm... Năm nào vào năm học mới cũng khệ nệ tranh tre gỗ lạt để dựng lán, làm hầm.
Năm đầu cấp 3 - lớp 8 bấy giờ, tôi được tuyển chọn vào lớp chuyên văn đầu tiên của tỉnh. Thầy trò sơ tán lên tận Vĩnh Lộc, bên bờ sông Mã không xa thành Nhà Hồ. Lớp học khi ấy nép vào thân đê, cũng nửa chìm nửa nổi. Nhiều đêm nghe tiếng bom rền, chủ nhà chúng tôi trọ học bảo máy bay B52 của Mỹ thả bom bên mạn Thọ Xuân. Mãi đến hồi ký kết Hiệp định Paris, đầu năm 1973 thầy trò mới về lại Trường cấp 3 Lam Sơn giữa lòng thị xã Thanh Hóa. Thị xã Thanh Hóa khi ấy ngổn ngang đổ nát.
Suốt năm tháng tuổi thơ tôi sống trong không khí nơm nớp chiến tranh bom đạn. Có đêm đang ngủ, bị đánh thức dậy, cả nhà vội vội vàng vàng vơ vội ít đồ rồi gồng gánh tản cư. Là có tin đêm nay B52 của Mỹ sẽ rải thảm dọc bờ biển này. Có hôm, cấp trên cấp báo tàu biệt kích sẽ đổ bộ, lại sơ tán. Có thời kỳ, cả khẩu đội pháo DKZ ở trong nhà tôi. Nơi đặt khẩu DKZ cách nhà chỉ vài trăm mét canh chừng tàu Mỹ đổ bộ ban đêm. Có năm, cả một tiểu đoàn pháo mặt đất 122 li đặt trận địa trước làng. Từ nhà tôi ra trận địa pháo gần nhất chỉ vài trăm mét. Một vài lần ra xem tàu chiến Mỹ lùi lũi từ khơi vào, rồi quay ngang câu pháo vừa thích vừa sợ. Đôi lần chứng kiến mấy khẩu pháo 122 li của bộ đội nhằm tàu chiến Mỹ khai hỏa, thấy tàu Mỹ xịt khói đen, quay đầu chạy, hô toáng lên cháy rồi.
May mà làng tôi chưa bị trúng pháo kích. Nghe tiếng “véo” là biết đạn pháo từ tàu Mỹ vượt qua làng mình. Nhưng bị bom đạn thì nhiều đận. Có lần bè đánh cá vào gần bờ, máy bay Mỹ lao tới, xả đạn ca-nông-vanh, có người chết, có người bị thương. Lần khác, lúc nửa đêm về sáng, bom nổ xóm trên, có gia đình chết và bị thương gần hết. Có lần, trận địa phòng không của dân quân xã đặt ở đầu làng trên, máy bay Mỹ phát hiện, chúng xả đạn một nữ dân quân hy sinh. Làng tôi, hồi đó có một nhân vật nổi tiếng, chị Tô Thị Cửi bị bom Mỹ tiện đứt cả hai bàn tay, nhưng chị vẫn làm được những việc như người lành lặn, từ khâu vá, củi lửa, cơm nước... đến học hành. Hồi đó chị được đi nhiều nơi, cả nước ngoài, để tố cáo tội ác đế quốc Mỹ.
Tôi có người bạn rất thân, chơi với nhau từ thuở nhỏ. Anh hơn tuổi tôi, học hết cấp hai là đi học trung cấp cầu đường giao thông. Năm Mỹ phong tỏa bến phà Ghép, anh làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông ở đây. Một lần anh xung phong cảm tử lái ca nô rà phá ngư lôi, bom từ trường. Bom nổ quá gần, anh hy sinh.
Người anh con bác ruột tôi, dáng cao, đẹp trai, lại hát hay. Đến giờ, tôi vẫn đinh ninh ở làng tôi anh là thanh niên đẹp trai nhất, tốt tính nhất. Ra đường gặp người quen hay lạ, anh chào hỏi từ xa. Chưa thấy ai trách anh một lời. Quê tôi ngày ấy bữa đói bữa no, cơm khoai sắn cũng chỉ ngày hai bữa. Anh có thói quen chưa ăn gì cũng ngậm cái tăm bên miệng. Xuống nhà tôi, gặp bữa thày mẹ tôi có mời chào gãy đũa, anh vẫn cứ cháu vừa ăn, cháu vừa ăn.Vào những năm chiến tranh ác liệt, anh đi thanh niên xung phong, chuyên làm đường ở miền tây Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình. Năm 1968, anh chuyển sang bộ đội. Trong lần cùng đoàn xe đưa hàng vào tuyến trong, anh hy sinh cùng với nhiều đồng đội khi trúng bom tọa độ của Mỹ. Ngày gia đình nhận tin dữ đúng hôm cơn bão lớn từ biển đổ vào. Tiếng khóc thương anh trong đêm bão gió quăng quật ấy cứ đọng mãi trong tôi. Điều làm tôi canh cánh bao năm qua, là đến hiện giờ vẫn chưa biết mộ anh ở đâu? Giấy báo tử gửi về có kèm theo sơ đồ mộ chí. Mộ anh nằm trên quả đồi, xóm Cây Bòng, xã Lâm Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Gia đình một vài lần theo giấy báo tử đi tìm anh, mà không có thông tin gì. Bác gái tôi bao năm khắc khoải chờ mong đưa hài cốt anh về, nhưng rồi vô vọng. Không biết bây giờ anh ở đâu?
Chúng ta đều hiểu, chiến tranh là hy sinh, là mất mát, là đau thương. Chiến tranh không phải trò đùa. Vậy mà nhiều nơi trên hành tinh này, vẫn còn chiến tranh, xung đột, vẫn còn bom rơi, đạn nổ. Ngày hôm nay, bạn cùng tôi ôn lại những ký ức thời chiến tranh để thêm trân trọng giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; để thêm yêu quý hình ảnh cao đẹp của người lính./.
TIN LIÊN QUAN
Ý KIẾN
Trong ký ức của một người con, có một căn nhà xưa sơ sài tới mức không có cổng, nhưng trong căn nhà nhỏ ấy, lại đầy ắp tình yêu thương của mỗi thành viên trong gia đình dành cho nhau…
Dạo gần đây mạng xã hội nổi rần rần về chữa lành. Chỉ cần mở YouTube, 10 podcast thì 9 cái nói về việc chữa lành. Có người nói với tôi, muốn hạnh phúc phải yêu chính mình trước đã, phải chiều chuộng bản thân, làm gì mình thích để chữa lành. Dành thời gian cho bản thân nhiều hơn, nghĩ đến bản thân nhiều hơn, đặt gánh nặng trách nhiệm trên vai xuống để đi chữa lành cho đầu óc thanh thản, nhẹ nhàng hơn...
Đêm ở biển, thanh âm của biển, vị của biển, giữa một màu đen bát ngát bao la. Lòng bình yên lắng dịu. Biển vắng giữa đêm mùa thu thật lạ mà thật quen. Ngỡ như ta đã gặp đâu đó một thời xa lắm. Nhớ về một đêm biển vắng năm nào, ngồi ở một căn chòi nhỏ, lặng nghe tiếng mưa rơi... Biển vẫn vậy, dịu dàng quá đỗi. Ta khác rồi, liệu đã thâm trầm như biển ngày xưa?
Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng từng một lần theo đuổi điều gì đó tưởng chừng vĩ đại, tưởng chừng hoàn hảo. Đó có thể là những giấc mơ lớn lao hay chỉ là những điều giản dị, bé nhỏ mà tâm hồn chúng ta đã khắc khoải tìm kiếm. Với tôi, hành trình ấy bắt đầu từ những buổi chiều thơ bé, nơi tôi đắm mình giữa đồng cỏ xanh rì, tìm kiếm chiếc lá cỏ hoàn hảo - một thứ biểu tượng đẹp đẽ mà tôi tin rằng khi tìm thấy, cuộc đời tôi sẽ trọn vẹn theo cách kỳ diệu nhất. Có một người cũng giống như tôi.
Có một người không sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng quãng thời gian mà người ta vẫn ưu ái gọi tên "đẹp nhất của đời người" - thời trung học của cô đã gắn với mảnh đất cổ kính, nên thơ này. Từ lâu, Hà Nội đối với cô đã vượt lên cả một miền ký ức, trở thành một phần hiện hữu trong cuộc đời.
Hà Nội - một cái tên vừa nghe đã thấy nôn nao trong lòng, một miền ký ức không chỉ của riêng tôi mà còn của biết bao người đã từng đi qua nơi này, dù chỉ một lần.
Ước mơ ăn sáng ở Hà Nội, ăn trưa tại Sài Gòn sắp trở thành hiện thực khi Nhà nước quyết định đầu tư đường sắt cao tốc Bắc Nam. Ký ức một thời về những chuyến tàu xưa cũ sẽ dần chìm vào quên lãng...
Có người từng nói với tôi Hà Nội đâu có gì để si mê đến thế! Cũng có người kể rằng sống ở Hà Nội bao năm nhưng họ chẳng vấn vương gì thành phố tắc đường và khói bụi này. Không phải ai cũng đồng điệu trước những điều làm tôi quyến luyến với Thủ đô.
Những ngày thu dịu mát ở Sài Gòn, một người bước vào văn phòng, bất ngờ nhận một bó cúc họa mi được người bạn cất công mang từ Hà Nội vào gửi tặng. Nhìn sắc trắng giản dị của bó hoa, lòng ai đó không khỏi bồi hồi nhớ về khoảng đời niên thiếu nhiều mộng mơ ở Thủ đô.
Có người kể với tôi, cô ấy ra trường năm 2015 và bắt đầu cuộc sống của người trưởng thành với một công việc trái ngành không thể bình thường hơn. Cùng thời điểm ấy, bạn bè cô có người hăm hở học lên cao, có người vào làm tập đoàn lớn, có người thì đã bắt đầu khởi nghiệp.
Trong khuôn viên của một ngôi trường cấp ba, nơi một cô giáo làm việc mỗi ngày, có trồng rất nhiều cây. Mỗi loài cây đều có sức hút riêng với những đặc tính khác nhau. Những gốc sala cuối góc sân trường luôn làm cô chú ý bởi vẻ đẹp thuần khiết nhưng mạnh mẽ; như bao thế hệ học trò vừa hồn nhiên trong trẻo, vừa tự tin. Mỗi khi trong lòng có những chênh vênh bất ổn, cô thường thả hồn mình trôi vào khoảng xanh mênh mông này để tìm lại bình yên.
Có một vẻ đẹp rất riêng của Hà Nội mà chỉ những người yêu nơi này mới cảm nhận rõ - vẻ đẹp của sáng sớm những ngày giao mùa. Khi đất trời chưa dứt hẳn khỏi thu mà đông đã lấp ló đâu đó, cả thành phố như trôi trong một tầng không gian mờ ảo, nơi sắc vàng nhạt của nắng sớm hòa lẫn với làn sương mỏng, giăng kín những con đường, len lỏi vào từng góc phố.
Có một người được sinh ra và lớn lên nơi mảnh đất phương Nam đầy nắng gió. Cô luôn ao ước được chiêm ngưỡng vẻ rêu phong cổ kính, được đắm mình trong tiết thu se sắt hay cái giá rét của ngày đông phố cổ, được ngắm nhìn những phụ nữ Hà Thành với nét duyên dáng đặc trưng của mình… Và rồi cô cũng có dịp đến thăm mảnh đất kinh kỳ với bao háo hức, mong chờ.
Thời tiết năm nay khác hẳn năm trước. Năm trước mưa thường ghé lúc chiều chiều, mưa từng hồi nặng hạt kéo theo nước dâng ngập lối. Năm nay mưa đỏng đảnh và bất chợt, cứ đến rồi đi, bất kể thời gian nào trong ngày. Mưa đi ngang tưới mát con phố nhỏ, mưa vô tình làm ướt góc sân mới hôm trước còn đắm mình trong cái nắng oi ả. Có người cũng quen dần với sự thất thường ấy của những ngày mưa.
Có một người nhìn vườn thu qua ô cửa sổ, thấy cây lá reo vui, trái chín gọi mời. Mùi hương quen thuộc mỗi mùa thu lại dậy lên trong gió thoảng. Cây thị góc vườn, cây ổi bờ ao bao năm nay vẫn đúng hẹn đơm hoa kết trái để mỗi khi thu về lại lặng lẽ tỏa hương. Gió thu xao động, trái chín đung đưa.
Mùi hương hoa sử quân tử trong đêm mưa luôn dịu dàng ôm ấp tôi sau ngày dài mỏi mệt. Có một người cũng như tôi, vẫn nhìn thấy loài hoa quen thuộc ấy hằng ngày, thế mà phải vào một đêm mưa tan, cô ấy mới nhận ra hương thơm của sử quân tử có thể khiến người ta thấy bình an đến vậy.
Một ngày cuối hạ ở Tứ Xuyên, Trung Quốc, khi những tán cây ngô đồng dần trở nên vàng vọt, lòng một người không khỏi nao nao nhớ mùa thu Hà Nội. Đó cũng là lý do dẫu sống xa xứ nhưng người đó thường giữ thói quen quay trở về Hà Nội vào mùa thu. Cũng bởi, mùa thu trong ký ức của nhiều người Hà Nội có một hương vị rất riêng biệt, chẳng thể trộn lẫn với bất kỳ nơi nào.
Có một người ngồi trong quán nhâm nhi từng ngụm café. Nhìn ngắm không gian được bài trí theo lối cổ xưa, những vật dụng xưa cũ, những ký ức chợt ùa về. Những vui buồn, sung sướng hay khổ đau đều như một thước phim quay chậm từ từ hiện ra trong trí óc cô. Một bản nhạc không lời nhiều âm sắc khiến cô chầm chậm đi ngược dòng thời gian.
Có người thích ngắm hoàng hôn, những lúc ấy cô thấy hồn mình thật tĩnh lặng. Như rặng núi sau hè nhẹ nhàng chìm vào đêm tối, lối mòn nào bước chân cũng dần xa. Cô hay nhẩn nha, thật ra là không biết làm gì hơn, nhìn mông lung theo ánh nắng buông lơi qua thềm. Mặt trời lặn dần, bâng khuâng ngày khép lại. Ngày mai là một ngày mới, thì thôi đừng nhìn lại, thôi đừng nhớ chuyện đã qua.
Phố lúc nào cũng hối hả. Người vội vã đi làm cho kịp giờ. Người tất bật đón con lúc tan ca. Người chớp nhoáng bán mua. Người gấp gáp giao hàng. Đường tuy rộng mà chật chội, đông đúc. Nắng nóng, khói bụi, kẹt xe, ngập nước… liệu ra phố có gì vui?
Mùa thu, người ta thường giật mình nhìn chiếc lá vàng mà nghe muôn nỗi tàn phai. Đời người rồi cũng là những quán không, là con nước trôi, là "mong manh có khác chi đời lá"? Nên cứ mỗi độ "Ô hay buồn vương cây ngô đồng/Vàng rơi! Vàng rơi: thu mênh mông", thì câu thơ tuyệt tác của Bích Khê cứ dâng lên nỗi bâng khuâng, man mác màu ly biệt.
Có một người rất thích những chiều tà. Kết thúc một ngày với bao chuyện buồn vui hoặc chỉ là một ngày bình thường nhưng khi ngồi lặng ngắm hoàng hôn, điều mà cô ấy nghĩ lại là ngày mai, ngày mai sẽ như thế nào sau khi ngày hôm nay kết thúc.
Có một người kể với tôi rằng: Cô ấy đã xăm một dấu chấm phẩy trên cổ tay trái. Khi nhìn thấy hình xăm nhỏ nhắn đó, nhiều người thường tò mò hỏi về ý nghĩa của nó.
Một buổi sáng Hà Nội, chút se lạnh tràn về từ khi ánh đèn đường vẫn còn mờ ảo, phủ lên những con phố một làn hơi sương nhẹ. Phía bờ cây xa xa, những chiếc lá vàng vẫn cố bám trụ trên cành, đợi một cơn gió nhẹ để buông mình xuống đất.
Tháng Mười, khi những cơn gió nhẹ khẽ lướt qua, mang theo hương thơm của lá khô và đất ẩm, anh lại nhớ mẹ nhiều hơn bao giờ hết. Anh nhớ về những ngày thơ ấu, nhớ những lần được mẹ ôm vào lòng, lắng nghe từng lời ân cần và trìu mến mẹ dành cho anh. Anh muốn nói với mẹ: Dù có lớn khôn thế nào, con vẫn luôn là đứa con trai bé nhỏ của mẹ.
Bạn biết không, tan làm cũng là lúc đèn đường rọi mờ mấy góc phố. Những cao ốc chọc trời sáng dần giữa bóng đêm buông thõng xuống thị thành. Lại một ngày mệt nhoài bên máy tính. Những báo cáo, kế hoạch, vài file excel chằng chịt công thức, làm bản thân chẳng còn thời gian để kịp nhận ra bao lâu rồi mình chưa được ngủ một giấc tròn chẳng lo lắng trách nhiệm?
Trong những giấc mơ hồi trẻ thơ, có một người thường nghe thấy tiếng sóng biển rì rầm, những ngọn sóng xanh mơn man bờ cát, nên ước ao một lần được nhìn thấy biển. Những câu chuyện mà ba cô thường hay kể cho chị em cô nghe mỗi khi rảnh rỗi, càng làm cô nôn nao những mơ ước về biển.
Vào một ngày giữa thu lộng gió, có một người bỗng thèm ly cà phê trứng nóng, nhớ cái hương vị đắng đót với béo ngọt ngầy ngậy đan nhau thành thức uống đặc trưng của Thủ đô. Cô nhớ cái không gian đượm mùi phố cổ - chật chội và xưa cũ, mùi cà phê quyện với mùi người, mùi của tường vôi trắng hòa trong những sợi nắng vàng hơn rót mật.
Chuyến bay đầu ngày từ thành phố Hồ Chí Minh hạ cánh xuống Nội Bài lúc ngoài trời vừa hửng nắng. Đón xe qua phố cổ trong cái háo hức như thể sắp gặp lại người bạn cũ, tim một người bất chợt rộn ràng nhanh hơn cả tốc độ vụt qua của cảnh vật bên ngoài cửa kính. Những con đường rộng rãi nối liền trục chính, rồi từ vô vàn ngã rẽ lại vẽ ra biết bao lối nhỏ vào đời thân thương mà ai đến đây lần đầu cũng đều khắc sâu ấn tượng.
Có những nỗi nhớ sẽ luôn tìm cớ trở về. Giữa những bộn bề của cuộc sống, trái tim luôn biết chắt lọc những thương nhớ thẳm sâu. Giữa những nhung nhớ ấy có một dòng sông quê lấp lánh.
Mỗi lần nghĩ đến lời hẹn về Thủ đô, có một người lại có cảm giác mình đang mắc nợ. Hà thành nhẫn nại đợi chờ, Hà thành chẳng bao giờ cất tiếng đòi cô phải thực thi món nợ đã kéo dài suốt hai thập niên. Nhưng cô lại thấy mình như kẻ thất hứa.
Tan làm về muộn, tôi đi chầm chậm qua những con đường thoáng rộng của Hà Nội, ngắm nhìn vẻ đẹp tĩnh lặng và sâu lắng của Thủ đô, vẻ đẹp mà ban ngày tôi không thể nhìn thấy. Hít hà hương bao loài hoa nhẹ nhàng thoang thoảng đâu đây, cảm nhận một thoáng heo may lướt nhẹ qua bờ vai, tôi biết, mùa thu đã về.
Thỉnh thoảng có một người vẫn hay ngồi một mình trong không gian vắng lặng, vặn ánh đèn vừa đủ sáng, chỉnh âm lượng vừa đủ nghe. Cô cứ ngồi đó thả hồn theo làn khói của nụ trầm hương, vấn vương những điều muốn quên, muốn nhớ. Khó mà nói được những lúc như vậy, cô buồn hay vui, chỉ biết là có một khoảnh khắc nào đó cô có thể dành trọn vẹn cho mình mà không bị chi phối bởi một ai hay điều gì khác. Khúc nhạc ngày thường bỗng trầm lắng bao suy tưởng, thực sự khi chỉ có một mình, ta vô tình nắm bắt được những thứ mà khi ồn ào vội vã ta đã lướt qua nhanh.
Có một cô gái, muốn kể cho người thương của mình về chuyện tình yêu của ông bà cô - một câu chuyện tình dài hơn 70 năm. Cho đến lúc mắt đã mờ, chân đã run, ông bà vẫn sớm tối bên nhau.
Có một người sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo trên mảnh đất miền Trung. Ở đó, lớp lớp người trẻ khi trưởng thành đều chọn vào Nam lập nghiệp mà chẳng mấy ai ra Hà Nội. Bởi vậy, Thủ đô Hà Nội từ nhỏ trong cô là một nơi xa xôi, trang nghiêm. Được đặt chân đến mảnh đất ngàn năm văn hiến dù chỉ một lần là niềm mơ ước mãi đến năm hai mươi sáu tuổi cô mới thực hiện được.
Bạn có bao giờ từng đứng giữa phố phường ồn ả, cố gắng len lỏi qua dòng xe chật ních như mắc cửi, để đuổi theo một người? Không phải vì trông hao hao bóng dáng thân quen nào đó. Bạn biết chắc người ta với bạn hoàn toàn xa lạ. Bạn mải miết đuổi theo, chỉ vì người ta đang mặc bộ đồ bà ba, mà lâu lắm, bạn mới nhìn thấy giữa chốn thị thành.
Đứa cháu đang băn khoăn nhờ ông chú “quân sư” chọn trường phù hợp, mà nhất định phải là một trường ở Hà Nội. Trong lòng một người bỗng chộn rộn miền ký ức sinh viên nơi ngõ nhỏ thân thương tưởng chừng đã ngủ yên tự khi nào.
Sáng ra đã nghe hơi sương vương ướt trán, hình như thu đã về. Qua một mùa hè nóng bức, thu về đất trời có phần dịu mát hơn, đêm ngủ bớt nồng hanh, gần sáng đã phải đắp chăn vì lạnh. Thu về không chỉ mang theo bao kỷ niệm mà còn tặng cho người những món quà của mùa thu.
Mỗi khi muốn lòng nhẹ nhàng thanh thản, cô lại tìm đến một ngôi chùa nhỏ. Ở đó, trong không gian tĩnh lặng, trong hương sen thoang thoảng, ngắm nhìn những chiếc lá sen nghiêng mình trong gió, cô bỗng chợt nhận ra những điều thật ý nghĩa trong cuộc đời…
Có một người em gái sống ở miền Nam gọi điện cho một người anh ở Hà Nội rằng, mùa thu này, nhất định cô ấy sẽ trở ra Hà Nội, và cô hẹn anh phải dành một buổi dẫn cô đi ăn hết những món quà chiều ở Thủ đô.
Mỗi một mùa trong năm tựa hồ một bức tranh tứ bình đầy thi vị. Nếu mùa xuân, đất trời dần được sưởi ấm, cây lá đâm chồi nảy lộc; mùa hạ, nắng vàng như rót mật, những cơn mưa bất chợt mát lành thì mùa thu lại như một nàng thiếu nữ đôi mươi quyến rũ và lãng mạn.
Phú Thọ là vùng đất của rừng cọ, đồi chè. Đời sống của người dân gắn bó keo sơn với cây cọ bao đời nay. Lá cọ xưa thường được dùng để lợp mái nhà, làm quạt, chổi, nón, mành. Thân cọ làm ván sàn, cột nhà... Còn quả cọ là nguyên liệu không thể thiếu của nhiều món ăn. Nếu tới Phú Thọ, bạn sẽ có dịp được thưởng thức món bún cọ.
Cái nết đỏng đảnh của những ngày cuối hạ đọng lại trong nắng mưa thất thường. Thế nào mà nắng còn đang rót mật, mưa đã ào ạt trút xuống, rồi mưa chưa được bao lâu, nắng đã vội hong mặt đường ráo hoảnh. Sự trong trẻo, thanh tân của đất trời sau mưa thai nghén một thoáng thu sang khi hạ đang dần tàn. Để rồi, chợt một ngày, thu miên man ngang phố…
Tháng Mười về, mang theo chút se lạnh đầu đông, có người không khỏi nhớ về những ngày tháng ấy, những tháng Mười đã qua trong cuộc đời. Tháng Mười không ồn ào, không vội vã, mà chỉ đơn giản lặng lẽ trôi, như một bản nhạc nhẹ nhàng ngân lên giữa lòng thành phố. Ở đâu đó trong gió, hương thơm của những mùa cũ quay về, mang theo bao ký ức, bao nỗi niềm thầm lặng.
Có một cô gái, cũng như bao người khác, cô có thể ngồi ở bên này gửi lời hỏi thăm một người bạn ở tận bên kia quả địa cầu, nhưng, nhiều hơn một lần, cô đã chọn chữ viết tay để tỏ bày. Những lần ấy, cô thấy lòng mình bay bổng như thể hái được đóa mây bồng bềnh rồi mê say đưa tay tung hứng.
Một buổi sáng tháng Tám, có người tỉnh dậy, trong tiết thu dìu dịu, cảm thấy tâm hồn thật khoan khoái, dễ chịu. Một cơn gió thật nhẹ thoảng qua cũng đủ đưa hương thị chín từ cây thị già góc vườn lùa vào cánh mũi phập phồng. Và bao ký ức về một mùa thu đong đầy yêu thương lại tràn về.
0