Chuyện kể dưới cổng làng

Ở các làng cổ xưa trên mảnh đất Thăng Long hay xứ Đoài, đi đến đâu cũng có thể gặp hình ảnh chiếc cổng làng cổ kính tạo nên sức sống riêng cho ngôi làng.

Cổng làng vốn là một công trình kiến trúc cổ, mang trên mình giá trị văn hóa, lịch sử vừa thực, vừa tâm linh. Làng không cổng chẳng khác gì nhà không cửa.

Dù làng to hay nhỏ thì đều phải có cổng.

Trong một thống kê, tính đến cuối năm 2013, không kể Hà Tây, Hà Nội (cũ) chỉ còn 98 cổng làng. Trong đó, Thụy Khuê là phố có nhiều cổng làng nhất.

Tính đến cuối năm 2013, Hà Nội (cũ) chỉ còn 98 cổng làng.

Dọc phố Thuỵ Khuê từ chợ Bưởi đi vào, cứ đi vài chục mét, xen giữa những căn nhà hiện đại lại có một chiếc cổng làng rêu phong. Người dân ở đây chẳng ai biết chính xác những chiếc cổng này có từ khi nào.

Ông Nguyễn Văn Dung sinh ra và lớn lên ở phường Bưởi. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, ông vẫn nhớ rất rõ về những chiếc cổng làng khi ông còn nhỏ và những câu chuyện thời các cụ kể về ngôi làng này.

"Nhà tôi ở đây rất nhiều đời. Cổng làng làng Hồ của chúng tôi đẹp lạ. Trong cả phường Bưởi này có năm làng có cổng, nhưng riêng cổng làng Hồ là đẹp nhất" - ông Dung nói.

Sinh sống ở con ngõ 378 Thụy Khuê nhiều năm nay, những người dân làng Hồ Khẩu có nếp sinh hoạt hàng ngày gắn với nhịp sống quanh cổng làng. Với người dân Hồ Khẩu, cổng làng là nơi in dấu biết bao kỉ niệm của họ. Chiếc cổng làng chính là điểm xuất phát và cũng là nơi tìm về của tâm hồn mỗi người con làng Hồ Khẩu.

Tách biệt so với cuộc sống ồn ào ngoài kia, nhịp sống của người dân sau cổng làng Hồ Khẩu trên con phố Thụy Khuê suốt bao năm qua vẫn vậy, không quá ồn ào, không quá bon chen. Đâu đó vẫn là những nếp sinh hoạt xưa cũ của những người dân ở ngôi "làng trong phố" theo một cách riêng.

Cổng làng Hồ Khẩu là nơi in dấu biết bao kỉ niệm của người làng.

Ước Lễ, tên nôm là làng Chảy (thuộc xã Tân Ước, huyện Thanh Oai), là một trong những ngôi làng cổ của xứ Đoài, nằm ở phía Tây Nam, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 30km.

Trải qua năm thế kỷ, đến nay, cổng làng Ước Lễ vẫn giữ được lối kiến trúc cổ của làng xưa. Không những là nơi chắn giữ, canh phòng về mặt an ninh, cổng làng Ước Lễ còn thể hiện giá trị tinh thần và lẽ sống của người dân nơi đây thông qua các dòng câu đối chữ Hán.

Ước Lễ là ngôi làng duy nhất trong bốn thôn, làng ở Tân Ước có nghề làm giò chả nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc.

Từ cổng làng Ước Lễ, bao thế hệ người dân làng nghề đã bôn ba khắp nơi, đem nghề làm giò chả đến mọi miền của đất nước. Nhưng dù đi đâu, họ vẫn nhớ về ngôi làng nơi họ đã sinh ra, lớn lên.

Cổng làng Ước Lễ

"Cổng làng

Nơi người già thường ngồi kể về quá khứ

Khách vãng lai dừng chân trú nắng trưa nồng

Nơi lũ trẻ trèo leo và chim về làm tổ

Lá rơi nhiều khi gió chớm vào đông..."

Cổng làng đã một thời làm nơi đầu làng chờ cha, cuối làng đón mẹ của biết bao tuổi thơ. Giờ đây, hàng ngày chiếc cổng làng rêu phong, trầm mạc, thân thương ấy vẫn dõi theo vòng quay sinh - trưởng - tụ - về của biết bao con người. Dù đã trải qua biến thiên thời cuộc,  mảnh hồn quê ấy vẫn gây thương nhớ, là niềm tự hào của nhiều người.

Mỗi cổng làng đều có nét đặc sắc, riêng biệt tùy theo đặc điểm và biểu trưng cho sự uy nghi nền nếp của mỗi ngôi làng.

Thời gian qua đi, dù nhiều cổng làng được xây lại hoặc mở rộng, không giữ nguyên lối kiến trúc truyền thống, song dân làng vẫn trân trọng và khắc lên đó mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với cuộc sống của người dân trong làng.

Cổng làng Trinh Lương (phường Phú Lương, Hà Đông).

Cổng làng Trinh Lương (phường Phú Lương, Hà Đông) nổi tiếng với bốn chữ "Trong ấm, ngoài êm" trên bức đại tự.

Ông Phạm Quang Xiểm là người dân thôn Trinh Lương, phường Phú Lương, quận Hà Đông. Ông luôn tự hào về nơi mình đã gắn bó cả cuộc đời và đặc biệt là chiếc cổng của làng. Trân trọng những giá trị văn hóa cốt lõi của cha ông, ông Xiểm đã cùng bà con gìn giữ để  "bốn chữ vàng" vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Nếu ai muốn tìm đường về đây, chỉ cần hỏi làng "trong ấm, ngoài êm" là sẽ đến được nơi cần đến. Thông điệp trong ấm ngoài êm nhiều năm nay đã giúp cho người dân làng Trinh Lương giữ được nền nếp trong mỗi mái nhà.

Dù ngày nay cổng làng không còn chức năng bảo vệ như thành lũy xưa, nhưng trong tâm trí của mỗi người Hà Nội, khi nhìn thấy cổng làng hẳn đều có cảm giác bình yên. Bởi, mỗi người Hà Nội nói riêng và người Việt nói chung đều có một quê hương ngự trị trong tâm hồn.

Chỉ cần bước qua ranh giới cổng làng là cảm nhận được sự khác biệt giữa đi và ở, giữa quê và phố, giữa xô bồ và an nhiên...

User
Ý KIẾN

Dưới bàn tay của những nghệ nhân "Vua dép lốp", đôi dép cao su Bác Hồ ngày nay đã có sức sống riêng, mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt trong mắt bạn bè quốc tế. Thương hiệu "Vua dép lốp" được biết đến bởi nghệ nhân Phạm Quang Xuân, người đã gắn bó với công việc tái tạo đôi dép Bác Hồ hơn 60 năm qua.

Với tâm huyết gìn giữ giá trị truyền thống, nghệ nhân Vũ Văn Giỏi đã góp phần hồi sinh nghệ thuật thêu trang phục cung đình tưởng chừng đã mai một.

Giữa cuộc sống hiện đại, nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, người học trò xuất sắc của cố nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, miệt mài gìn giữ nghệ thuật hát xẩm và đưa xẩm Hà Thành tới gần hơn với người Hà Nội.

Vậy là ngày 20/10 sắp về trong niềm hân hoan của những người phụ nữ Việt Nam; là ngày các bà, các mẹ, các cô, các chị, các em được tôn vinh, được dành tặng những bó hoa tươi thắm cùng những lời chúc tốt đẹp nhất.

Hà Nội có rất nhiều làng quê có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Trong đó làng nghề Phùng Xá, xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức từng được mệnh danh là "thủ phủ dâu tằm".

Nhiều khách hàng kỹ tính tìm đến nghệ nhân Nguyễn Thanh Nhàn (Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội) đặt làm những đôi giày thiết kế độc bản, đặc sắc, "may đo" riêng phù hợp đặc điểm của từng đôi chân.

Trong không khí của ngày 10/10, tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, Đại tá, nhà giáo Nguyễn Thụ sống trong ký ức hào hùng của 70 năm trước.

Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu cái đẹp. Và nhà văn Hoàng Quốc Hải chính là một trong những người con đã dành trọn cả cuộc đời mình để ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất này.

Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) là một sự kiện lịch sử quan trọng, khẳng định thắng lợi trọn vẹn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Gần một tuần trước ngày giải phóng, gần 400 thanh niên đã vào Thủ đô để thực hiện nhiệm vụ tiền trạm nhằm tuyên truyền và vận động, giúp nhân dân hiểu rõ hơn về các chính sách của Đảng và Nhà nước.

Một ngày đầu tháng 10 năm 1954, dân phố cổ xôn xao khi biết tin quân Pháp sẽ rút khỏi Hà Nội. Trong căn nhà ba tầng ở số 80 phố Hàng Đào, cậu bé Lê Bảo Tháp nhấp nhổm, háo hức chờ đón các chú bộ đội tiến về giải phóng Thủ đô.

Người dân Hà Nội có nhiều cách bày tỏ tình yêu với Thủ đô. Nhiều người tự hào về lịch sử lâu đời, văn hóa phong phú, những di sản kiến trúc độc đáo; một số người thường nhắc đến những nét đặc trưng như phố cổ, Hồ Gươm hay những món ăn đặc sản như phở, bún chả...

Chào đón đoàn quân trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954, ngoài cờ hoa, biểu ngữ rợp trời, phố phường Hà Nội thêm vẻ uy nghi bởi những chiếc cổng chào được dân chúng dựng lên ở nhiều cửa ngõ, phố phường Hà Nội. Người đời sau sẽ khó hình dung về những “khải hoàn môn” ngày ấy nếu không có một tay máy trẻ tuổi say mê chụp ảnh cổng chào: Trịnh Đình Tiến.

Hình ảnh người nhạc sĩ mặc comple màu trắng, đánh đàn guitar, hát trong rừng người giữa rợp cờ hoa hân hoan đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954 đã được ghi lại thành khoảnh khắc của lịch sử. Người đàn ông đó - cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, sau này được coi là “ông vua Sonate của Việt Nam”.

Khi mà ai bây giờ cũng thành nhiếp ảnh gia với chiếc điện thoại, giữa lòng Thủ đô Hà Nội còn đó một gia đình bốn đời làm nghề sửa máy ảnh cũ. Người ta gọi đó là một nghề cổ.

Khi nhắc đến đô thị hiện đại, chúng ta thường hình dung ra sự hối hả, nhịp sống tất bật. Nhưng đằng sau những tòa nhà cao tầng, sau từng con phố vẫn tồn tại những giá trị rất đẹp đó là tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Không chỉ là sự sẻ chia về vật chất, mà đó còn là sự đồng lòng trong từng hành động, từng cử chỉ giúp đỡ lẫn nhau chung tay vượt qua thử thách.

Việc tạo tác cho những chiếc đồng hồ tinh xảo không chỉ là công việc, mà còn là sự kết hợp giữa nghệ thuật và sự đam mê và mỗi chiếc đồng hồ đều mang theo dấu ấn cá nhân và tâm huyết của người thợ chạm khắc.

Nghệ nhân Lê Bá Chung (Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội) là một trong những người vực dậy làng nghề quỳ vàng duy nhất của cả nước, khôi phục nghề sơn son dát vàng sau hơn 50 năm bị mai một.

Bộ đôi tác phẩm “Thanh âm Hà Nội” và “Cô đơn giữa Hà Nội”, được phát hành ngày 26/9 trên nền tảng số của các kênh âm nhạc, là món quà âm nhạc chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô của nhạc sĩ Nguyễn Thành Trung.

Ngày nay, dù người đọc đã có nhiều sự lựa chọn hơn trong cách đọc báo, dù số lượng báo in hàng ngày giảm đi so với trước đây thì một bộ phận người Hà Nội vẫn giữ thói quen đọc báo giấy hàng ngày.

Từ những mảnh vải vụn được sưu tầm về, cùng với sự sáng tạo, bàn tay khéo léo của nữ họa sĩ Thanh Thục, những tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống đã ra đời.

Ngày nay, khi mà chiếc áo, chiếc quần có khi chỉ mặc qua một lần chụp ảnh đã thành cũ, thì chuyện vá lại những vết rách trên quần áo là điều hiếm thấy. Thế mà giữa Hà Nội vẫn có một người phụ nữ hàng ngày tỉ mẩn từng đường kim mũi chỉ vá lại những chiếc áo, quần rách.

Mâm cỗ Trung thu chẳng khi nào thiếu được bánh nướng, bánh dẻo. Nhưng ít ai biết rằng, ẩn sau vẻ đẹp tròn đầy của chiếc bánh là cả một quá trình sáng tạo tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo của những nghệ nhân làm khuôn bánh.

Với niềm đam mê gắn bó với nghề truyền thống, giữa phố cổ Hà Nội, có một gia đình vẫn duy trì nghề làm mặt nạ giấy bồi từ nhiều năm nay.

Tại làng Thuỵ Ứng (Hòa Bình, Thường Tín, Hà Nội), những chiếc sừng khi qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân Lê Thị Thuận, đều trở thành những món đồ tinh xảo, đẹp mắt.

Sinh ra trong làng nghề điêu khắc gỗ Ngọc Than (Quốc Oai, Hà Nội), lại có năng khiếu mỹ thuật, nghệ nhân tranh điêu khắc gỗ Bùi Trọng Lăng đã tạo nên những tác phẩm độc đáo mang hồn cốt Việt.

Các thành viên đến từ mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính hay nhóm cộng đồng trong xã hội đều được kết nối với nhau bằng tình yêu âm nhạc, thông qua dự án âm nhạc cộng đồng Hợp xướng đa dạng.

Miệt mài trong suốt 3 năm mới có được tác phẩm ưng ý đầu tiên, nghệ nhân Đỗ Văn Cường đã tạo tác nên những sản phẩm mộc mỹ nghệ đặc sắc mang dấu ấn cá nhân.

Niềm đam mê với các ý tưởng sáng tạo là nguồn cảm hứng để chị Minh Phương cho ra đời các sản phẩm túi xách độc đáo, thân thiện với môi trường, tôn vinh nghề thủ công của Hà Nội mang thương hiệu riêng của mình.

Nghệ nhân Đào Anh Tuấn kế thừa tài năng của cha mình, nghệ nhân ưu tú Đào Văn Soạn, người làm đàn nổi tiếng ở làng nghề làm nhạc cụ dân tộc truyền thống Đào Xá.

Theo đuổi kỹ thuật đắp vẽ thủ công, sử dụng các nguyên vật liệu truyền thống để khảm phù điêu trên các công trình tâm linh, nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy đã có hơn 30 năm gìn giữ nghề “nề ngõa” - một nghề truyền thống với cái tên có lẽ không mấy người từng nghe.

Trong cuộc sống bận rộn và hối hả của Hà Nội, tôi thường có thói quen tìm đến những ngôi chùa, ngôi đình cổ, nơi thời gian dường như ngưng đọng lại. Trong hành trình tìm kiếm, tôi đã gặp gỡ và trò chuyện với nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội).

Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước mà còn là biểu tượng của sự thanh lịch và văn minh. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh không chỉ là mục tiêu của thành phố mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Nghệ đã kế thừa những kỹ thuật đan tre của gia đình và đưa những chiếc lồng tre làng Vác đi đến nhiều nơi trên thế giới.

Sinh ra và lớn lên ở một làng quê, với những buổi trưa hè bơi sông vớt củi, những buổi tối bên ánh đèn dầu, ông và nhóm bạn cùng trang lứa đã tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ.

Yêu nghề, nghệ nhân Vũ Huy Mến âm thầm giữ nghề làm tranh sơn mài truyền thống với chất liệu sơn ta và phù sa sông Hồng.

Trong bối cảnh nhiều làng nghề mỹ nghệ sử dụng sơn công nghiệp để chế tác thì có một người nghệ nhân vẫn kiên nhẫn “trò chuyện” với sơn ta để tạo ra những tác phẩm độc đáo và riêng biệt.

Nữ nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thỏa, người phụ nữ đầu tiên tại làng Đào Thục biểu diễn rối nước, luôn giữ trong mình ngọn lửa đam mê với văn hóa truyền thống của quê hương.

Ở các làng cổ xưa trên mảnh đất Thăng Long hay xứ Đoài, đi đến đâu cũng có thể gặp hình ảnh chiếc cổng làng cổ kính tạo nên sức sống riêng cho ngôi làng.

Gắn bó với những chiếc nón lá từ thời thơ bé, nghệ nhân Lê Văn Tuy đã góp phần đưa những chiếc nón làng Chuông đi khắp cả nước và đến với bạn bè quốc tế.

Khi những vạt nắng chói gắt của mùa hè đổ xuống, độ trung tuần tháng 6, là lúc sen Hà Nội rộ hương.

Những mảnh lấp lánh của nghệ thuật khảm trai, cẩn ốc (khảm xà cừ) đã bước vào cả những giấc mơ của người nghệ nhân Nguyễn Đình Hải.

Cafe Thái, quán cafe ngót trăm tuổi của Hà Nội, nơi cafe được rang thủ công bằng củi, nơi từng cốc cafe thấm đượm mùi khói bình dị và thanh lịch như cốt cách người Hà Nội .

Anh Lê Việt Cường dù mắc bệnh bại liệt từ nhỏ nhưng vẫn quyết tâm đi học và tốt nghiệp trường Cao đẳng Bách khoa. Trải qua nhiều công việc, thấu hiểu sự khó khăn của những người cùng hoàn cảnh, anh Cường đã quyết tâm thành lập HTX “Vụn Art” - nơi người khuyết tật có thể tạo ra những bức tranh ghép từ vải vụn bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.

Không chỉ sáng tạo kỹ thuật để những con tằm tự dệt lụa, nghệ nhân ưu tú Phan Thị Thuận còn là người đầu tiên ở Việt Nam tạo ra những tấm lụa từ sợi tơ sen.

Vào mỗi độ tháng 6 hằng năm, sen Tây Hồ lại bước vào mùa đẹp nhất. Sen Tây Hồ không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp thanh tao, hương thơm ngát đặc trưng mà bởi loại sen này là nguyên liệu chính làm nên trà sen Tây Hồ trứ danh.

Nằm trong căn nhà nhỏ trên phố Lãn Ông, hiệu thuốc y học cổ truyền Nghi Hưng Long được ra đời từ năm 1900, đến nay đã trải qua nhiều thế hệ cha truyền con nối.