Độc đáo nghề dát vàng quỳ ở Kiêu Kỵ
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nghề dát vàng quỳ luôn được người dân xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội gìn giữ và phát triển. Với bề dày truyền thống trên 400 năm, nghề dát vàng quỳ nơi đây đã nức tiếng gần xa.
Theo sử sách ghi lại, nghề dát vàng quỳ có từ 300 năm trước dưới thời Hậu Lê. Thủa ấy, có ông Nguyễn Quý Trị, người làng Kiêu Kỵ tài giỏi nên được cử đi xứ Phương Bắc. Khi sang đó, cụ đã học được nghề dát vàng bạc và sau khi đã thông thạo, cụ mang về truyền dạy cho dân làng Kiêu Kỵ.
Từ đó đến nay, dù trải qua nhiều thăng trầm, nghề dát vàng bạc vẫn được người dân trong làng gìn giữ từ đời này qua đời khác. Khi nhiều công trình văn hóa, di tích lịch sử được trùng tu, xây mới, nghề truyền thống ở Kiêu Kỵ cũng được khôi phục và phát triển hơn.
Dấu ấn của người thợ Kiêu Kỳ đã in khắp những công trình từ kiến trúc, đến những bức tượng Phật, hoành phi, câu đối dát vàng bạc lấp lánh trên khắp mọi miền đất nước. Bởi Kiêu Kỵ hiện là làng nghề duy nhất ở Việt Nam chuyên làm vàng quỳ và chỉ có những nghệ nhân nơi đây mới có thể làm được ra những sản phẩm như mong muốn.
Các cụ cao niên trong làng kể lại, ở nhiều làng nghề truyền thống khác, các cụ tổ nghề không chỉ truyền dạy cho người dân trong một làng mà còn truyền nghề cho các làng lân cận. Thế nhưng riêng nghề làm quỳ vàng ở Kiêu Kỵ lại khác, bởi ông tổ Nguyễn Quý Trị chỉ truyền dạy cho người trong làng.
Ở làng Kiêu Kỵ hiện nay còn khoảng 20 hộ gia đình vẫn đang theo nghề, trong dó có gia đình của nghệ nhân Nguyễn Thiên Hùng. Xưởng của anh Hùng hiện có khoảng 10 nhân công, hàng ngày họ vẫn chăm chỉ, cần mẫn làm việc để cho ra những sản phẩm sơn son thếp vàng đẹp mắt.
Gần 40 năm tâm huyết và gắn bó với nghề, nghệ nhân Nguyễn Thiên Hùng đã trải qua một hành trình đầy khó khăn và vất vả, nhưng cũng rất đỗi tự hào. Sinh ra và lớn lên ở làng Kiêu Kỵ, một ngôi làng nổi tiếng với truyền thống dát quỳ vàng bạc hàng trăm năm, anh Hùng may mắn được thừa hưởng những giá trị và bí quyết quý báu từ nghề truyền thống của quê hương. Ngay từ nhỏ, anh đã được tiếp xúc và học hỏi từ các nghệ nhân lão làng, trau dồi kỹ năng và phát triển niềm đam mê với nghề dát quỳ vàng bạc.
Suốt gần 40 năm, anh Hùng không chỉ giữ vững được nghề truyền thống mà còn không ngừng sáng tạo và cải tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm. Anh đã phải đối mặt với nhiều thử thách, từ việc duy trì kỹ thuật truyền thống cho đến cạnh tranh với các sản phẩm hiện đại. Tuy nhiên, với tình yêu nghề và sự kiên định, anh đã vượt qua mọi khó khăn, đưa sản phẩm dát quỳ vàng bạc của mình đến với nhiều khách hàng trong và ngoài nước.
Sự thành công của nghệ nhân Nguyễn Thiên Hùng không chỉ là niềm tự hào cá nhân mà còn là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của nghề truyền thống Việt Nam. Những sản phẩm của anh không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo mà còn là biểu tượng của sự kết nối giữa nhiều yếu tốt: quá khứ - hiện tại, truyền thống - hiện đại.
Để làm hoàn thành một sản phẩm được dát vàng, bạc quỳ thì phải trải qua rất nhiều công đoạn, mỗi công đoạn lại phải làm đi làm lại rất nhiều lần. Đặc biệt, các sản phẩm được làm thủ công 100% và không sử dụng một loại máy móc nào để hỗ trợ.
Quy trình sản xuất dát vàng, bạc trải qua ba khâu chính: làm quỳ mới, đập diệp và làm quỳ cũ. Sau khi hoàn tất ba cộng đoạn trên mới được thếp lên sản phẩm. Trong làm quỳ mới lại có khâu làm mực và làm giấy giống. Giấy để làm giấy giống được làm từ giấy gió và được người thợ cẩn thận lựa chọn, nhưng đa phần được lấy từ những làng nghề làm giấy truyền thống như Yên Thái mới đảm bảo độ dai và mang lại độ sáng bóng cho quỳ vàng.
Theo lối xưa, để dát được một lá vàng mỏng thếp lên các bức tượng, hoành phi, câu đối phải trải qua 40 công đoạn. Hiện nay, một số khâu được tối giản, nên chỉ còn 20 công đoạn. Theo các cụ cao niên ở làng Kiêu Kỵ, khâu làm giấy quỳ giống mang tính chất quyết định đến chất lượng sản phẩm. Đã có lúc các thợ làng suýt bỏ nghề vì không tìm ra loại giấy thay thế. Ở làng vẫn truyền miệng nhau câu: “Giấy giống là sự sống”.
Mỗi quỳ 500 lá, trên mỗi lá đặt một mảnh vàng nhỏ 1cm2, dùng vải dường bâu gói lại, đặt lên đe bằng đá, dùng loại búa chuyên dụng đập lên tập lá quỳ, sao cho mảnh vàng mỏng và tràn bằng lá quỳ.
Người thợ giỏi có thể đập một chỉ vàng dàn mỏng thành tấm lá vàng có diện tích hơn 1m2. Muốn có một quỳ vàng, người thợ phải đập khoảng một giờ liên tục, tương đương gần 3000 nhát búa cho một quỳ vàng. Còn ở giai đoạn cuối, khi gỡ vàng trả khách, người thợ phải làm việc trong phòng kín gió.
Nghề làm vàng quỳ rất tinh xảo, tỉ mỉ, đòi hỏi người thợ phải kiên trì cần mẫn lao động cùng những thao tác và kỹ thuật chuẩn. Hiện nay, với những thế hệ trẻ, để tìm được những người yêu nghề và muốn bảo tồn, phát huy nghề truyền thống không phải dễ. Tuy nhiên, nghề dát vàng Kiêu Kỵ vẫn có những bạn trẻ, những truyền nhân tương lai của nghề ngày ngày đam mê, cần mẫn học hỏi, nâng cao trình độ để gìn giữ, phát triển nghề cổ truyền.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Hiệp cũng là một trong nhưng bàn tay vàng của làng nghề Kiêu Kỵ. Nghệ nhân Nguyễn Văn Hiệp trông trẻ hơn rất nhiều so với tuổi thật. Anh đã bắt đầu theo đuổi nghề dát quỳ vàng bạc từ khi còn nhỏ, tiếp nối truyền thống gia đình đã có bốn đời làm nghề này, bao gồm cả con trai anh.
Gia đình anh Hiệp, qua nhiều thế hệ, đã gìn giữ và phát triển kỹ nghệ này, truyền lại những bí quyết và kinh nghiệm quý báu từ đời này sang đời khác. Anh Hiệp không chỉ là một nghệ nhân tài năng mà còn là người giữ lửa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của nghề truyền thống này trong bối cảnh hiện đại.
Những sản phẩm do anh tạo ra luôn được đánh giá cao về chất lượng và nghệ thuật, thể hiện sự đam mê và tâm huyết của người nghệ nhân dành cho nghề nghiệp của mình.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Hiệp còn thành công trong việc quảng bá và mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình. Đơn đặt hàng từ khắp cả nước và thậm chí xuất khẩu sang vài nước Đông Nam Á đã cho thấy sự công nhận và yêu thích dành cho sản phẩm của anh.
Xưởng của anh Hiệp có khoảng 10 người làm việc, chủ yếu là các thành viên trong gia đình. Điều này không chỉ đảm bảo chất lượng sản phẩm mà còn duy trì và phát triển nghề truyền thống qua từng thế hệ.
Trong thời đại 4.0, sản phẩm thủ công làm bằng tay lại càng được ưa chuộng vì tính độc đáo và giá trị nghệ thuật cao. Mặc dù việc áp dụng công nghệ số trong quá trình sản xuất chưa nhiều, anh Hiệp đã tận dụng công nghệ để bán hàng qua mạng, mở rộng phạm vi khách hàng và nâng cao doanh số.
Điều này minh chứng rằng sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại có thể mang lại hiệu quả cao, giúp nghề truyền thống như dát quỳ vàng bạc không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ trong thời đại ngày nay.
TIN LIÊN QUAN
Ý KIẾN
Dưới bàn tay của những nghệ nhân "Vua dép lốp", đôi dép cao su Bác Hồ ngày nay đã có sức sống riêng, mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt trong mắt bạn bè quốc tế. Thương hiệu "Vua dép lốp" được biết đến bởi nghệ nhân Phạm Quang Xuân, người đã gắn bó với công việc tái tạo đôi dép Bác Hồ hơn 60 năm qua.
Với tâm huyết gìn giữ giá trị truyền thống, nghệ nhân Vũ Văn Giỏi đã góp phần hồi sinh nghệ thuật thêu trang phục cung đình tưởng chừng đã mai một.
Giữa cuộc sống hiện đại, nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, người học trò xuất sắc của cố nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, miệt mài gìn giữ nghệ thuật hát xẩm và đưa xẩm Hà Thành tới gần hơn với người Hà Nội.
Vậy là ngày 20/10 sắp về trong niềm hân hoan của những người phụ nữ Việt Nam; là ngày các bà, các mẹ, các cô, các chị, các em được tôn vinh, được dành tặng những bó hoa tươi thắm cùng những lời chúc tốt đẹp nhất.
Hà Nội có rất nhiều làng quê có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Trong đó làng nghề Phùng Xá, xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức từng được mệnh danh là "thủ phủ dâu tằm".
Nhiều khách hàng kỹ tính tìm đến nghệ nhân Nguyễn Thanh Nhàn (Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội) đặt làm những đôi giày thiết kế độc bản, đặc sắc, "may đo" riêng phù hợp đặc điểm của từng đôi chân.
Trong không khí của ngày 10/10, tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, Đại tá, nhà giáo Nguyễn Thụ sống trong ký ức hào hùng của 70 năm trước.
Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu cái đẹp. Và nhà văn Hoàng Quốc Hải chính là một trong những người con đã dành trọn cả cuộc đời mình để ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất này.
Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) là một sự kiện lịch sử quan trọng, khẳng định thắng lợi trọn vẹn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Gần một tuần trước ngày giải phóng, gần 400 thanh niên đã vào Thủ đô để thực hiện nhiệm vụ tiền trạm nhằm tuyên truyền và vận động, giúp nhân dân hiểu rõ hơn về các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Một ngày đầu tháng 10 năm 1954, dân phố cổ xôn xao khi biết tin quân Pháp sẽ rút khỏi Hà Nội. Trong căn nhà ba tầng ở số 80 phố Hàng Đào, cậu bé Lê Bảo Tháp nhấp nhổm, háo hức chờ đón các chú bộ đội tiến về giải phóng Thủ đô.
Người dân Hà Nội có nhiều cách bày tỏ tình yêu với Thủ đô. Nhiều người tự hào về lịch sử lâu đời, văn hóa phong phú, những di sản kiến trúc độc đáo; một số người thường nhắc đến những nét đặc trưng như phố cổ, Hồ Gươm hay những món ăn đặc sản như phở, bún chả...
Chào đón đoàn quân trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954, ngoài cờ hoa, biểu ngữ rợp trời, phố phường Hà Nội thêm vẻ uy nghi bởi những chiếc cổng chào được dân chúng dựng lên ở nhiều cửa ngõ, phố phường Hà Nội. Người đời sau sẽ khó hình dung về những “khải hoàn môn” ngày ấy nếu không có một tay máy trẻ tuổi say mê chụp ảnh cổng chào: Trịnh Đình Tiến.
Hình ảnh người nhạc sĩ mặc comple màu trắng, đánh đàn guitar, hát trong rừng người giữa rợp cờ hoa hân hoan đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954 đã được ghi lại thành khoảnh khắc của lịch sử. Người đàn ông đó - cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, sau này được coi là “ông vua Sonate của Việt Nam”.
Khi mà ai bây giờ cũng thành nhiếp ảnh gia với chiếc điện thoại, giữa lòng Thủ đô Hà Nội còn đó một gia đình bốn đời làm nghề sửa máy ảnh cũ. Người ta gọi đó là một nghề cổ.
Khi nhắc đến đô thị hiện đại, chúng ta thường hình dung ra sự hối hả, nhịp sống tất bật. Nhưng đằng sau những tòa nhà cao tầng, sau từng con phố vẫn tồn tại những giá trị rất đẹp đó là tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Không chỉ là sự sẻ chia về vật chất, mà đó còn là sự đồng lòng trong từng hành động, từng cử chỉ giúp đỡ lẫn nhau chung tay vượt qua thử thách.
Việc tạo tác cho những chiếc đồng hồ tinh xảo không chỉ là công việc, mà còn là sự kết hợp giữa nghệ thuật và sự đam mê và mỗi chiếc đồng hồ đều mang theo dấu ấn cá nhân và tâm huyết của người thợ chạm khắc.
Nghệ nhân Lê Bá Chung (Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội) là một trong những người vực dậy làng nghề quỳ vàng duy nhất của cả nước, khôi phục nghề sơn son dát vàng sau hơn 50 năm bị mai một.
Bộ đôi tác phẩm “Thanh âm Hà Nội” và “Cô đơn giữa Hà Nội”, được phát hành ngày 26/9 trên nền tảng số của các kênh âm nhạc, là món quà âm nhạc chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô của nhạc sĩ Nguyễn Thành Trung.
Ngày nay, dù người đọc đã có nhiều sự lựa chọn hơn trong cách đọc báo, dù số lượng báo in hàng ngày giảm đi so với trước đây thì một bộ phận người Hà Nội vẫn giữ thói quen đọc báo giấy hàng ngày.
Từ những mảnh vải vụn được sưu tầm về, cùng với sự sáng tạo, bàn tay khéo léo của nữ họa sĩ Thanh Thục, những tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống đã ra đời.
Ngày nay, khi mà chiếc áo, chiếc quần có khi chỉ mặc qua một lần chụp ảnh đã thành cũ, thì chuyện vá lại những vết rách trên quần áo là điều hiếm thấy. Thế mà giữa Hà Nội vẫn có một người phụ nữ hàng ngày tỉ mẩn từng đường kim mũi chỉ vá lại những chiếc áo, quần rách.
Mâm cỗ Trung thu chẳng khi nào thiếu được bánh nướng, bánh dẻo. Nhưng ít ai biết rằng, ẩn sau vẻ đẹp tròn đầy của chiếc bánh là cả một quá trình sáng tạo tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo của những nghệ nhân làm khuôn bánh.
Với niềm đam mê gắn bó với nghề truyền thống, giữa phố cổ Hà Nội, có một gia đình vẫn duy trì nghề làm mặt nạ giấy bồi từ nhiều năm nay.
Tại làng Thuỵ Ứng (Hòa Bình, Thường Tín, Hà Nội), những chiếc sừng khi qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân Lê Thị Thuận, đều trở thành những món đồ tinh xảo, đẹp mắt.
Sinh ra trong làng nghề điêu khắc gỗ Ngọc Than (Quốc Oai, Hà Nội), lại có năng khiếu mỹ thuật, nghệ nhân tranh điêu khắc gỗ Bùi Trọng Lăng đã tạo nên những tác phẩm độc đáo mang hồn cốt Việt.
Các thành viên đến từ mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính hay nhóm cộng đồng trong xã hội đều được kết nối với nhau bằng tình yêu âm nhạc, thông qua dự án âm nhạc cộng đồng Hợp xướng đa dạng.
Miệt mài trong suốt 3 năm mới có được tác phẩm ưng ý đầu tiên, nghệ nhân Đỗ Văn Cường đã tạo tác nên những sản phẩm mộc mỹ nghệ đặc sắc mang dấu ấn cá nhân.
Niềm đam mê với các ý tưởng sáng tạo là nguồn cảm hứng để chị Minh Phương cho ra đời các sản phẩm túi xách độc đáo, thân thiện với môi trường, tôn vinh nghề thủ công của Hà Nội mang thương hiệu riêng của mình.
Nghệ nhân Đào Anh Tuấn kế thừa tài năng của cha mình, nghệ nhân ưu tú Đào Văn Soạn, người làm đàn nổi tiếng ở làng nghề làm nhạc cụ dân tộc truyền thống Đào Xá.
Theo đuổi kỹ thuật đắp vẽ thủ công, sử dụng các nguyên vật liệu truyền thống để khảm phù điêu trên các công trình tâm linh, nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy đã có hơn 30 năm gìn giữ nghề “nề ngõa” - một nghề truyền thống với cái tên có lẽ không mấy người từng nghe.
Trong cuộc sống bận rộn và hối hả của Hà Nội, tôi thường có thói quen tìm đến những ngôi chùa, ngôi đình cổ, nơi thời gian dường như ngưng đọng lại. Trong hành trình tìm kiếm, tôi đã gặp gỡ và trò chuyện với nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội).
Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước mà còn là biểu tượng của sự thanh lịch và văn minh. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh không chỉ là mục tiêu của thành phố mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Nghệ đã kế thừa những kỹ thuật đan tre của gia đình và đưa những chiếc lồng tre làng Vác đi đến nhiều nơi trên thế giới.
Sinh ra và lớn lên ở một làng quê, với những buổi trưa hè bơi sông vớt củi, những buổi tối bên ánh đèn dầu, ông và nhóm bạn cùng trang lứa đã tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ.
Yêu nghề, nghệ nhân Vũ Huy Mến âm thầm giữ nghề làm tranh sơn mài truyền thống với chất liệu sơn ta và phù sa sông Hồng.
Trong bối cảnh nhiều làng nghề mỹ nghệ sử dụng sơn công nghiệp để chế tác thì có một người nghệ nhân vẫn kiên nhẫn “trò chuyện” với sơn ta để tạo ra những tác phẩm độc đáo và riêng biệt.
Nữ nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thỏa, người phụ nữ đầu tiên tại làng Đào Thục biểu diễn rối nước, luôn giữ trong mình ngọn lửa đam mê với văn hóa truyền thống của quê hương.
Ở các làng cổ xưa trên mảnh đất Thăng Long hay xứ Đoài, đi đến đâu cũng có thể gặp hình ảnh chiếc cổng làng cổ kính tạo nên sức sống riêng cho ngôi làng.
Gắn bó với những chiếc nón lá từ thời thơ bé, nghệ nhân Lê Văn Tuy đã góp phần đưa những chiếc nón làng Chuông đi khắp cả nước và đến với bạn bè quốc tế.
Khi những vạt nắng chói gắt của mùa hè đổ xuống, độ trung tuần tháng 6, là lúc sen Hà Nội rộ hương.
Những mảnh lấp lánh của nghệ thuật khảm trai, cẩn ốc (khảm xà cừ) đã bước vào cả những giấc mơ của người nghệ nhân Nguyễn Đình Hải.
Cafe Thái, quán cafe ngót trăm tuổi của Hà Nội, nơi cafe được rang thủ công bằng củi, nơi từng cốc cafe thấm đượm mùi khói bình dị và thanh lịch như cốt cách người Hà Nội .
Anh Lê Việt Cường dù mắc bệnh bại liệt từ nhỏ nhưng vẫn quyết tâm đi học và tốt nghiệp trường Cao đẳng Bách khoa. Trải qua nhiều công việc, thấu hiểu sự khó khăn của những người cùng hoàn cảnh, anh Cường đã quyết tâm thành lập HTX “Vụn Art” - nơi người khuyết tật có thể tạo ra những bức tranh ghép từ vải vụn bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.
Không chỉ sáng tạo kỹ thuật để những con tằm tự dệt lụa, nghệ nhân ưu tú Phan Thị Thuận còn là người đầu tiên ở Việt Nam tạo ra những tấm lụa từ sợi tơ sen.
Vào mỗi độ tháng 6 hằng năm, sen Tây Hồ lại bước vào mùa đẹp nhất. Sen Tây Hồ không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp thanh tao, hương thơm ngát đặc trưng mà bởi loại sen này là nguyên liệu chính làm nên trà sen Tây Hồ trứ danh.
Nằm trong căn nhà nhỏ trên phố Lãn Ông, hiệu thuốc y học cổ truyền Nghi Hưng Long được ra đời từ năm 1900, đến nay đã trải qua nhiều thế hệ cha truyền con nối.
0