Hồi ức “Đại tướng Võ Nguyên Giáp đường tới Điện Biên Phủ” (phần 2) – Hữu Mai
Trước hàng loạt các kế hoạch mới của thực dân Pháp hòng tấn công dồn dập chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam, ngày 5/8/1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng trưởng phòng quân báo Cao Pha và một số thành viên chủ chốt khác đã có chuyến nghiên cứu thực địa tại Cao Bằng để cân nhắc liệu có thể chọn Cao Bằng là điểm đột phá mở đầu cho chiến dịch. Trong chuyến đi này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự tài ba, sắc sảo.
Ý KIẾN
Cho tới ngày hòa bình, khi Hữu đã là một vị tướng, anh quay trở lại suối Cọp trong buổi lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thời gian chia tay nơi đây đã hơn 40 năm, những ký ức, kỷ niệm hạnh phúc và đắng cay như cuộn phim quay chậm ở ngay trước mặt Hữu.
Chiến trường Trường Sơn luôn khốc liệt, Mỹ ngụy điên cuồng đánh phá, hủy diệt mọi con đường và khu vực trú quân của ta bằng bom, mìn và khí tài tối tân. Trong bối cảnh đó, Đại đội trinh sát vũ trang 26 phải đảm đương rất nhiều nhiệm vụ. Dù không được đào tạo về công binh nhưng do trải qua nhiều trận chiến khốc liệt và bản năng sinh tồn, anh em đã tự mày mò tìm hiểu, áp dụng mọi phương pháp phá bom, mìn để hoàn thành nhiệm vụ.
Sau khi liên hoan kết nạp Đảng với đồng đội, Hoàn rủ Hữu ra nơi hẹn hò của anh và Lan như thường lệ. Tuy nhiên, niềm vui, sự kiêu hãnh của Hữu khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng vẫn đang rạo rực nên anh từ chối và khuyên Hoàn không nên trốn đi chơi vì đảng viên làm như vậy là vi phạm điều lệ, kỷ luật.
Chiến trường Trường Sơn ngày đêm lúc nào cũng như chảo lửa, bởi thành tựu kỹ thuật khoa học tiên tiến và khủng khiếp nhất của Hoa Kỳ ở thế kỷ XX đã chọn nơi đây làm nơi thực nghiệm tính năng, hiệu quả của các thứ vũ khí giết người hiện đại. Và Đại đội trinh sát 26 thời điểm này cũng ở trong hoàn cảnh ấy.
Những ngày nằm dưỡng bệnh ở trạm cứu thương suối Cọp, Tom đã hiểu vì sao những con người bình dị ở tuổi 18, đôi mươi bước chân vào chiến trường một cách thanh thản. Bởi lẽ, trong lòng họ lúc nào cũng có ngọn lửa của lòng yêu nước. Tình yêu ấy luôn bùng cháy ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù có phải hy sinh.
Nơi chiến trường bom đạn, những chàng trai, cô gái đã dâng hiên cả thanh xuân tươi đẹp vì tự do của Tổ quốc. Họ có thể trở thành đàn ông, đàn bà trước khi có tình yêu. Và điển hình đó chính là Lan, mặc dù đã có tình yêu với Hoàn nhưng sâu thẳm trong cô vẫn là một nỗi xót xa.
Trong trận đánh lần này, Đại đội trưởng Tuần nhận lệnh không tiêu diệt địch mà nhiệm vụ chính là phải đuổi địch ra khỏi khu vực. Hiểu được tầm chiến lược của vị tướng tư lệnh chiến trường Trường Sơn là phòng thủ, bảo toàn lực lượng nhưng để đánh đuổi địch thì phải cho chúng rơi vào thế bị động.
Trận chiến giữa quân ta và Mỹ - ngụy diễn ra khốc liệt. Trận địa của ta và địch trải trên một địa bàn rộng lớn nhiều núi đá, rừng cây. Địch không biết được cách bố trí, ẩn nấp của ta, mà ta cũng không trinh sát được cách bố trí trận địa của địch.
Trận chiến giữa Đại đội bộ binh 759, Binh đoàn Trường Sơn với ba Đại đội biệt kích thám báo Mỹ và Ngụy đã bước sang ngày thứ ba trên một quả đồi không tên. Đây là một địa bàn rộng với địa hình phức tạp nhưng lại rất thuận lợi cho việc chia nhỏ quân để lập các tổ chốt vừa tấn công vừa phòng ngự và trú quân.
Ở thời khắc Hoàn và y tá Lan đang hẹn hò mặn nồng còn Hữu ngày đêm để ý đến Lệ thì Đại đội trưởng Tuần cũng lăn lội, trăn trở và lo lắng về tâm trạng của người anh yêu, đó là bác sĩ Liên. Từ khi anh đưa cô về hang suối Cọp, cô trở nên buồn rầu, ủ rũ, ngoài lúc phải chữa trị cho thương binh thì cô chỉ nằm trong hang.
Sau đêm nghịch ngợm của Hữu và Hoàn bị đại đội trưởng Tuần cho ăn mấy miếng võ đặc công chí tử thì hai anh lại gắn bó với nhau hơn. Họ kết thành đôi bạn thân thiết vì còn một lý do nữa là cả hai đang say mê cưa cẩm, tán tỉnh y tá Lan và Lệ.
Tại hang trú ẩn của dân bản Bông Va, Hữu và Hoàn như hơi ấm của cách mạng mang lại cho bà con không chỉ cái ăn, thuốc men, mà cái chính là mang lại một ngọn lửa của niềm tin rằng cách mạng không bỏ rơi bất cứ đồng bào nào. Mấy ngày sau, tổ công tác huyện Hướng Hóa đã kịp thời đến để viện trợ và giúp bà con ổn định cuộc sống.
Hoàn và Hữu tiếp cận được bản Bông Va khi trời đã ngả tối. Cả bản hoang vắng đến độ dù cả hai có gọi thế nào cũng chỉ có tiếng lay của gió đáp trả. Màn đêm buông xuống là lúc Hoàn và Hữu cảm thấy hoang mang nhất. Từng tiếng gió, tiếng cây cối lạc lõng, man dại như tiếng kêu của hồn ma, bóng quỷ.
Hoàn và Hữu, mỗi người một súng băng qua khu rừng chết. Đó là những ngày tháng khốc liệt về cả thể xác lẫn tinh thần với hai người lính. Những đêm dài với bao nhiêu nỗi buồn, nỗi ám ảnh và cả sự sợ hãi đến mức Hữu và Hoàn đều có chung một ý nghĩ: không còn thấy ngày mai.
Việc xử lý nội trú quân tại rừng ở thời điểm mưa lũ, núi lở gần như làm tê liệt mọi ngả đường trở về biên giới Việt Nam để lấy lương thực, đồ tiếp tế và bổ sung quân. Đồ ăn của toàn đại đội đều trông chờ ở củ mài, rau rừng và cá Suối Cọp.
Sau trận giao chiến khốc liệt với gần trăm tên biệt kích thám báo của Mỹ ngụy, Đại đội 26 chắc chắn không thể giữ nguyên quân số ban đầu. Chính trị viên Mão bắt đầu điểm danh hai cánh Trung đội 1 và Trung đội 2. Đứng trước 6 hàng quân xếp hàng ngang, ai cũng đen nhèm màu súng đạn nhưng không ai giấu được vẻ xúc động trước sự hy sinh anh dũng, quả cảm của đồng đội mình.
Khi Hoàn và Hữu tiếp cận được hai hướng bao vây, săn lùng của lũ biệt kích, là lúc cuộc chiến giữa Đại đội trinh sát 26 và biệt kích thám báo của Mỹ ngụy chuẩn bị bắt đầu. Sau tiếng súng chủ động khai hấn của hai người lính quả cảm, chính trị viên Mão cho Trung đội 1 và Trung đội 2 vận động tiếp cận được toán biệt kích dẫn tới cửa hang Cọp.
Khi Đại đội trinh sát 26 vận động, triển khai đội hình chiến đấu tiếp cận nơi bom đạn đang nổ vang trời thì cuộc giáp chiến giữa Đại đội biển kích Mỹ và Đại đội bộ binh 759 bảo vệ đường Trường Sơn đang vào thời khắc quyết liệt. Đại đội bộ binh 759 triển khai chiến thuật "bám thắt lưng địch mà đánh" nên bom đạn từ trên các loại máy bay Mỹ đã hết tác dụng.
Sau hai ngày hành quân xuyên rừng, vượt núi, Đại đội 26 của Hữu cũng đã tới được điểm chốt của nơi đóng quân. Đó là cánh rừng có nhiều núi đá, nhiều hang động và có một con suối chảy như lách qua, tạo nên sự kỳ vĩ, thơ mộng giữa một màu xanh ngút ngàn của cây, của lá pha tạp với nét cổ xưa.
Ý thức về sự hổ thẹn khi một gia đình không có người đi tòng quân, không tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, đã hằn sâu vào máu thịt của mỗi con người trong những năm tháng đó. Là con của Chủ tịch huyện, Hữu càng thấm nhuần điều này, vì thế mà anh luôn khát vọng ra chiến trường, lập được chiến công.
Tiểu thuyết 'Suối Cọp' kể về cuộc chiến đấu chống Mỹ gian khổ và anh dũng của quân, dân ta tại vùng Suối Cọp - nơi bắt đầu của Đông Trường Sơn, tiếp giáp với Tây Trường Sơn. Qua đó, nhà văn gửi tới bạn đọc một thông điệp ý nghĩa: Vì sao chúng ta thắng Mỹ một cách đầy thuyết phục?.
Nhân vật Diệu Ứng được tác giả xây dựng là một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, sáng suốt và can đảm. Chính nhờ có cô mà ông cậu chỉ biết ngồi kiết già, ôm ấp lý tưởng trở thành người hòa giải để vãn hồi hòa bình cho đất nước mới có địa vị được tín đồ trọng thị và mến mộ.
Đại tướng Dương Văn Minh vô cùng thắc mắc khi nhìn thấy tấm ảnh của Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông đạo Dừa. Nhưng vì thời điểm đó đất nước vẫn còn đang loạn lạc nên ông đành gác lại. Đến mãi sau này, khi lên làm Quốc trưởng chế độ Việt Nam Cộng hòa, ông mới quyết định gọi Đại úy Đỗ Thọ để hỏi về tấm ảnh đặc biệt này.
Cuộc nội chiến ở Vương quốc Cồn Phụng xảy ra âm thầm nhưng không kém phần gay gắt giữa phe cậu Hai và phe ông Lý. Hai bên lặng lẽ xây dựng lực lượng, trang bị thêm vũ khí, củng cố thêm tuyến phòng ngự và giành giật nhau về số lượng các quan ngả theo phe mình.
Dù đã làm một cuộc cách mạng nhân sự rất khôn khéo nhưng Diệu Ứng vẫn lo lắng về lực lượng quân đội ở các quận của ông Lý vô cùng hùng hậu và chúng có cả súng đạn. Để bảo vệ hoàng cung cho mọi trường hợp, Diệu Ứng quyết định tìm mua vũ khí.
Nguyễn Thành Nam kể lại ngày tháng bị bắt khi tìm đường sang miền Bắc gặp Cụ Hồ. Những người cách mạng vượt Trường Sơn chiến đấu đem lại hòa bình cho đất nước thì cậu Hai cũng vượt Trường Sơn tìm kiếm hòa bình cho dân tộc.
Nguyễn Thành Nam cùng ba đệ tử đã đi được một tháng nhưng ở Cồn Phụng vẫn không nghe ngóng được tin tức gì. Người đoán cậu đã bị bắt, người lại nghĩ cậu bị tai nạn chiến tranh, bị cọp ăn thịt trong rừng. Cả Cồn Phụng sống trong lo lắng, ai cũng mong tin và cầu cho cậu tai qua nạn khỏi.
Sự xuất hiện của nhân vật Tạ Văn Lý đã làm thay đổi giang sơn của đạo Dừa tại Cồn Phụng. Ông vốn tốt nghiệp Đại học luật nhưng không chọn làm Nhà nước mà chọn đi theo cậu Hai, bởi ông nhìn thấy tương lai cậu Hai sẽ trở thành giáo chủ của một nền đạo.
Nguyễn Thành Nam đã khiến cho Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ không thốt lên lời và phải công nhận, khâm phục tài đạo của ông. Những thuyết giảng của Nguyễn Thành Nam cùng việc đọc vị được hết những tính toán, ý đồ chiến lược của Nguyễn Cao Kỳ khiến ông cảm thấy trở nên sáng dạ và muốn trở thành đệ tử của đạo Dừa.
Nguyễn Thành Nam gặp gỡ Bân Cơ - vị đại sứ của nhiều nước nổi tiếng với nghệ thuật ngoại giao khôn khéo ông vua lật đổ bất cứ nước nào không chịu nghe theo Mỹ. Một ngài đại sứ thép như vậy lại dành cho Nguyễn Thành Nam một sự tiếp đãi trang trọng, thân tình như tiếp một nguyên thủ quốc gia, làm cho sư tổ đặc biệt cảm động và các đệ tử đạo Dừa hết sức hãnh diện.
Năm 1964, khi chiến trường chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Việt Nam đang diễn ra ác liệt, Nguyễn Thành Nam quyết định rời bờ sông Ba Lai, đưa toàn bộ cơ ngơi về Cồn Phụng. Đây là nơi lý tưởng cho thanh niên các tỉnh trốn lính, bởi Cồn Phụng bị ngăn cách sông nước và luật pháp chế độ Sài Gòn không cho phép bắt sư đi lính.
Năm 1961, hai miền bị chia cắt bởi con sông Bến Hải, Đạo Nam khó có thể vượt qua vĩ tuyến 17 để ra miền Bắc gặp Cụ Hồ. Trước tình hình không có giấy phép, cũng không thể xin chính quyền Ngô Đình Diệm bởi họ sẽ quy kết là phạm thượng, phản động. Dương Văn Hiền đã bàn với Nguyễn Thành Nam nên thông qua một bước trung gian rồi nhờ Đại sứ quán ở Hà Nội giúp đỡ.
Một buổi sáng cuối năm 1948, Nguyễn Thành Nam từ giã Thất Sơn trở về quê nhà. Lần này, vẫn có ông thầy bói đại tài đi cùng. Hàng ngày, Nam ngồi trước rạp hát Viễn Tường tịnh khẩu không nói chuyện với ai, chỉ khi bắt buộc phải trả lời, ông mới dùng bút viết.
Sau hai ngày di chuyển, Nam và thầy bói đã đến núi Tượng (Liên Hoa Sơn) nhưng phải gian nan leo núi, cả hai mới đến được An Sơn Tự. Trong khi thầy muốn Nam vào chùa để giới thiệu anh với các vị trụ trì thì anh lại muốn đi sâu vào rừng để tìm cái huyền diệu nơi núi Tượng.
Sau ba đêm ở khách sạn Đế Vương, Nam bị vứt ra đường. Anh không dám về nhà, lang thang hết phố này đến đường khác, luôn luôn nghĩ cách để được làm vua. Thay vì mua vé tàu về nhà, anh mua vé đi miền Đông bởi nghe nói trên núi ở Nha Trang có một vị hòa thượng tu đến độ có thể tàng hình.
Lấy bối cảnh ở Cồn Phụng - một cồn nhỏ giữa sông Tiền Giang, trong giai đoạn 1960 - 1970 nhiều biến động, tiểu thuyết đã làm sáng tỏ giai thoại bí ẩn của Nguyễn Thành Nam - một thầy tu đạo Dừa ẩn dật, thu hút gần 1 triệu tín đồ đến vương quốc tự xưng của ông.
Nguyễn Thừa đã có quyết định đi làm ở phòng hành chính thuộc ủy ban thị xã, tuy nhiên lý lịch vẫn luôn là con đường duy nhất cản trở anh. Sau một thời gian công tác, ủy ban đã nhận đơn kiện sử dụng con cháu phản động vào công việc chính quyền của nhân dân, buộc anh phải chuyển xuống phòng thủy lợi và đến Châu Lam làm công trình.
Cú sốc của gia đình và sự ra đi của mẹ khiến sức khỏe của cha Nguyễn Thừa ngày càng yếu đi. Trong một buổi sáng, ông đã lặng lẽ qua đời không một lời trăng trối. Sau tang bố, Nguyễn Thừa bỏ ý định xin đi bộ đội, anh quyết bỏ học để tìm việc làm.
Những năm học cấp ba, nhà trường tuyển chọn bồi dưỡng học sinh giỏi đi thi miền Bắc, Nguyễn Thừa đã được chọn vào tốp Văn còn cô bạn được chọn vào tốp Toán. Hai năm liền đi thi, cả hai đều đoạt giải Nhất, Nhì. Thành tích đó làm rạng danh cho cả tỉnh và nhà trường. Vậy nên, cả hai đã được Ban Giám hiệu đề nghị cử sang Liên Xô học.
Vì không được chữa trị kịp thời, mẹ Nguyễn Thừa đã không qua khỏi. Dẫu biết đó là vòng luân hồi của cuộc đời nhưng cả gia đình anh cùng làng xóm vẫn không tránh khỏi sự đau đớn, xót xa.
Vì cái nghề thu mua bán xe cũ của cha và cái nghề nuôi rắn của mẹ thuộc vào hàng hóa ngoại thương nhằm phục vụ cho giai cấp tư sản đã gắn cho gia đình Nguyễn Thừa tiếng phản động và người thuộc "tầng lớp khác", vì vậy gia đình anh khó mà thoát khỏi vòng lao tù. Sự việc xảy ra khiến cả nhà Nguyễn Thừa lao đao, mẹ anh lâm bệnh nặng.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, gia đình Nguyễn Thừa cùng làng xóm trở về phố Đệ Nhị, giờ là phố Văn Miếu. Nhà cửa được lợp lại, chị lớn đi lấy chồng, cha anh bắt đầu gom một số xe cũ hỏng mang về sửa sang rồi cho thuê. Mẹ anh thì khôi phục lại nghề sắn. Nguyễn Thừa cùng anh hai được đi học trở lại.
Tưởng như mọi hành động đối xử của bà Phó Chủ tịch với Hải Linh là nhiệm vụ tình cờ nhưng thực chất lại là sự sắp đặt của Chủ tịch thông qua Phó Chủ tịch. Anh nhờ bà đưa cho cô chiếc máy ảnh và cũng chính anh là người ngấm ngầm gửi tác phẩm của cô đi thi và đạt giải. Tuy Hải Linh biết rất rõ tất cả là ý đồ của Chủ tịch nhưng cô vẫn lờ đi như không hay.
Sau khi ở vùng tự do trở về Phúc An, người dân tản cư ai cũng lo hối lộ cho lão Lý trưởng bởi sợ gặp phiền phức. Riêng cha của Nguyễn Thừa không làm vậy nên ông bị lão nghi ngờ là gián điệp cho Việt Minh và kiếm cớ đó để cầm giấy đến nhà lục soát.
Hải Linh kể về khoảng thời gian cô nhận đỡ đầu một cô bé khuyết tật. Sau khi tâm sự và lắng nghe những ước nguyện ngây ngô mà chín chắn của cô bé 10 tuổi làm mọi việc bằng đôi chân, Hải Linh thưa chuyện với Phó Chủ tịch xã xin làm người đỡ đầu cho em để em được đến trường.
Từ ngày bỏ xứ đạo, Maria trở nên nửa tỉnh nửa mê. Cuộc sống hằng ngày của cô là lấy nhà ga, lề đường làm chỗ ngủ, đồ ăn thức uống nhặt được thứ gì thì dùng thứ đó. Không một ai có thể nhận ra cô nàng xinh đẹp thuở nào bởi có lẽ, cô không thể thoát ra khỏi ký ức trong căn hầm của cha Phêrô hôm đó.
0