Người trò chuyện với sơn ta

Trong bối cảnh nhiều làng nghề mỹ nghệ sử dụng sơn công nghiệp để chế tác thì có một người nghệ nhân vẫn kiên nhẫn “trò chuyện” với sơn ta để tạo ra những tác phẩm độc đáo và riêng biệt.

Chúng tôi đến nhà nghệ nhân sơn mài Vũ Huy Mến (xã Duyên Thái, Thường Tín, Hà Nội) vào một buổi sáng sớm mùa hè. Ông đón chúng tôi bằng nụ cười thân thiện và đôi bàn tay phủ lớp bột màu đen.

Nghệ nhân Vũ Huy Mến.

Ông nói ngay với chúng tôi “Các bạn về đây là chuẩn rồi, làng Hạ Thái chỉ còn có mấy nhà làm sơn mài theo kiểu truyền thống thôi”. Tôi cũng cảm thấy kì lạ khi ông nhấn mạnh vào “theo kiểu truyền thống”, tôi đã hỏi luôn ông về tranh sơn mài theo kiểu truyền thống là gì.

“Nếu nói về sơn mài truyền thống thì thứ đầu tiên mà ta phải nói đó chính là nguyên liệu để tạo ra tranh sơn mài truyền thống. Đó là sơn ta. Sơn ta thì đắt, lâu khô và hơi sơn có thể làm một số người bị ngứa, nổi mẩn”. Ông Mến giải thích.

“Sơn ta”, cụm từ này lần đầu tiên tôi nghe thấy, với một người trẻ thuộc thế hệ GenZ và đã sống ở nước ngoài từ năm 15 tuổi như tôi.

“Sơn ta thì nó rất là quý, phải khai thác ở trên đồi rừng Phú Thọ. Sơn ta chỉ có hai màu là màu đen hay các cụ còn gọi là màu then và màu cánh gián. Còn nếu muốn tạo thêm màu khác thì phải trộn với bột màu. Cái thứ sơn ta này có một độ bóng tự thân nghĩa là tự nhiên nó bóng lên ấy, nó không bị bóng loáng như sơn công nghiệp. Mà cái sơn ta này cũng hay lắm nhé, làm sơn mài bằng cái sơn này là phải biết cách thì mới dùng được”. Chắc ông thấy tôi cũng có vẻ lơ mơ về những gì ông vừa nói, ông đưa đoàn chúng tôi vào trong nhà xưởng nơi ông làm nên những bức tranh sơn mài. Ông lấy ra cho tôi xem một thứ chất lỏng sền sệt trộn với dầu rồi ông cười nói: “Đây sơn ta đây, khỏi thắc mắc nhé”.

Nguyên liệu sơn ta.

Tôi đưa tay ra định trộn thử thì ông bảo: “Lúc nãy tôi bảo rồi đấy, cái hơi sơn này mà người không quen làm thì bị ngứa. Cái thứ sơn này nhìn vậy thôi, sử dụng nó cũng phức tạp lắm đấy vì phải canh ngày tùy theo thời tiết phải chọn ngày nào không hanh khô mà làm. Sau đó đưa vào buồng ủ, buồng ủ phải tưới nước”.

“Sơn ta này thì nó khô trong ẩm, độ ẩm phải phù hợp thì sơn mới khô màu mới đẹp. Không biết làm thì có để cả tháng cũng không khô. Chũng không có công thức hay số liệu chính xác, chỉ dựa vào kinh nghiệm thôi. Nhỡ mà người thợ nào để sơn bắt hanh rồi thì chỉ có phá bỏ đi và làm lại. Ví dụ buổi sáng thời tiết nó tốt thì sơn sẽ khô nhanh, màu sắc lên sáng và đẹp. Còn nếu thời tiết nó xấu thì những người thợ sẽ đưa nó vào buồng ẩm để tạo nên độ ẩm tự nhiên thì sơn vẫn sẽ khô bình thường”. Ông Mến kiên nhẫn giải thích. Tôi nghĩ ông Mến chắc cũng phải giải thích rất nhiều lần cho những đoàn khách đến đây tìm hiểu về sơn mài.

“Làm tranh sơn mài này thì nó có 12 nước sơn tất cả. Chọn gỗ xong tời bọc vải rồi bó, hom, sau đó là lót, kẹt, thí, vóc. Sau mỗi bước như thế thì lại phải đưa tranh vào buồng ủ, ủ xong rồi lại sơn, sơn xong lại phải mài”.

Thấy chúng tôi có vẻ bối rối trước một loạt những từ ngữ chuyên môn, ông Mến chậm lại giải thích.

“Sơn bó là dùng sơn ta trộn với mùn cưa, đất phủ sa sông Hồng và rồi sơn nó lên. Hom thì nó cũng giống với bó nhưng nó không có mùn cưa để tạo thêm độ dày và độ nhẵn cho sản phẩm.”

Công đoạn sơn hom và mài tranh.

“Tổng thời gian để hoàn thành một bức tranh sơn mài thì còn phụ thuộc vào kích thước, chi tiết bức tranh, và đặc biệt là thời tiết. Mỗi một nước sơn thì phải để qua 24 tiếng đồng hồ mới có thể làm tiếp và sau khi hoàn thành vóc sẽ đưa vào trang trí. Trung bình cần 60 ngày để hoàn thành một bức tranh đạt tiêu chuẩn, hoàn chỉnh và đúng kĩ thuật”.

Giờ thì tôi hiểu vì sao ông Mến đón chúng tôi bằng đôi bàn tay phủ lớp màu the rồi. Đôi bàn tay ông chẳng khi nào rời sơn ta, đất sét, bột màu.

Trang trí tranh sơn mài bằng vỏ trứng.

Màu sắc và đường nét hiện ra dần dưới những lớp sơn.

Nghe ông Mến nói về sơn ta, tôi lại có thắc mắc về những nguyên liệu khác, liệu chỉ có sơn ta là quan trọng hay sao?

“Trong làm tranh sơn mài thì quan trong nhất là sơn và gỗ, vải thì cũng phải chọn loại vải không có ni - lông, đất thì có thể chọn đất sét hoặc đất phù sa sông Hồng. Còn về bột màu thì tôi phải nhờ gửi bên Nhật về đấy, loại này đắt nhưng màu lên sáng và đẹp”.

Một vài tác phẩm tranh sơn mài của Nghệ nhân Vũ Huy Mến:

Nói chuyện một lúc thì tôi cũng nhận ra năm nay ông Mến đã 74 tuổi, tôi hỏi ông nghĩ gì về đến tương lai sơn mài của làng Hạ Thái cũng như thế hệ tiếp nối. Ông rót chén trà rồi trầm ngâm:

“Riêng nhà tôi thì con gái tôi cũng theo nghề này rồi, cũng là nghệ nhân sơn mài đấy. Nghề sơn mài truyền thống này thì kể ra nó cũng khó vì các nguyên liệu, tay nghề đều đòi hỏi cao. Trong khi có những bức tranh làm xong mười mấy, hai chục năm mới bán được. Nhưng tôi tin rằng nghề sơn mài truyền thống này nó sẽ vẫn còn mãi vì đó là nét đẹp văn hóa mỹ thuật của Việt Nam rồi”. Ông Mến khẽ mỉm cười.

Nghệ nhân Vũ Huy Mến và con gái - nghệ nhân Vũ Thị Lệ Hà.

Làng nghề sơn mài Hạ Thái mang trong mình bề dày lịch sử hơn 300 năm, khởi nguồn từ nghề sơn đồ nét vào khoảng thế kỷ XVII. Tuy không được xem là nơi khai sinh nghề sơn Việt Nam, làng Hạ Thái lại nổi tiếng quy tụ nhiều nghệ nhân tài hoa được triều đình trọng dụng. Nổi tiếng với những sản phẩm sơn mài tinh xảo, lộng lẫy, phục vụ cho vua chúa và tầng lớp quý tộc, Hạ Thái được mệnh danh là làng nghề "dâng vua".

Sinh ra và lớn lên ở Giảng Võ, Hà Nội nhưng ông Vũ Huy Mến lại bén duyên với nghề làm tranh sơn mài của xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội). Tốt nghiệp trường Mỹ Nghệ Hà Tây năm 1966 chuyên ngành sơn mài truyền thống, ông Vũ Huy Mến được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Hà Nội năm 2015.

Đón xem chương trình "Tuyệt kỹ dưới lớp sơn" trong loạt phim tài liệu "Nghệ nhân Hà Nội" phát sóng lúc 10h00 thứ Bảy, ngày 27/07/2024 trên kênh H1 - Đài PT-TH Hà Nội; xem lại trên website hanoionline.vn, ứng dụng Hanoi On, YouTube HTV - Đài Hà Nội.

Tú Anh - Minh Tú

User
Ý KIẾN

Nhiều khách hàng kỹ tính tìm đến nghệ nhân Nguyễn Thanh Nhàn (Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội) đặt làm những đôi giày thiết kế độc bản, đặc sắc, "may đo" riêng phù hợp đặc điểm của từng đôi chân.

Trong không khí của ngày 10/10, tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, Đại tá, nhà giáo Nguyễn Thụ sống trong ký ức hào hùng của 70 năm trước.

Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu cái đẹp. Và nhà văn Hoàng Quốc Hải chính là một trong những người con đã dành trọn cả cuộc đời mình để ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất này.

Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) là một sự kiện lịch sử quan trọng, khẳng định thắng lợi trọn vẹn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Gần một tuần trước ngày giải phóng, gần 400 thanh niên đã vào Thủ đô để thực hiện nhiệm vụ tiền trạm nhằm tuyên truyền và vận động, giúp nhân dân hiểu rõ hơn về các chính sách của Đảng và Nhà nước.

Một ngày đầu tháng 10 năm 1954, dân phố cổ xôn xao khi biết tin quân Pháp sẽ rút khỏi Hà Nội. Trong căn nhà ba tầng ở số 80 phố Hàng Đào, cậu bé Lê Bảo Tháp nhấp nhổm, háo hức chờ đón các chú bộ đội tiến về giải phóng Thủ đô.

Chào đón đoàn quân trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954, ngoài cờ hoa, biểu ngữ rợp trời, phố phường Hà Nội thêm vẻ uy nghi bởi những chiếc cổng chào được dân chúng dựng lên ở nhiều cửa ngõ, phố phường Hà Nội. Người đời sau sẽ khó hình dung về những “khải hoàn môn” ngày ấy nếu không có một tay máy trẻ tuổi say mê chụp ảnh cổng chào: Trịnh Đình Tiến.

Hình ảnh người nhạc sĩ mặc comple màu trắng, đánh đàn guitar, hát trong rừng người giữa rợp cờ hoa hân hoan đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954 đã được ghi lại thành khoảnh khắc của lịch sử. Người đàn ông đó - cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, sau này được coi là “ông vua Sonate của Việt Nam”.

Khi mà ai bây giờ cũng thành nhiếp ảnh gia với chiếc điện thoại, giữa lòng Thủ đô Hà Nội còn đó một gia đình bốn đời làm nghề sửa máy ảnh cũ. Người ta gọi đó là một nghề cổ.

Khi nhắc đến đô thị hiện đại, chúng ta thường hình dung ra sự hối hả, nhịp sống tất bật. Nhưng đằng sau những tòa nhà cao tầng, sau từng con phố vẫn tồn tại những giá trị rất đẹp đó là tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Không chỉ là sự sẻ chia về vật chất, mà đó còn là sự đồng lòng trong từng hành động, từng cử chỉ giúp đỡ lẫn nhau chung tay vượt qua thử thách.

Việc tạo tác cho những chiếc đồng hồ tinh xảo không chỉ là công việc, mà còn là sự kết hợp giữa nghệ thuật và sự đam mê và mỗi chiếc đồng hồ đều mang theo dấu ấn cá nhân và tâm huyết của người thợ chạm khắc.

Nghệ nhân Lê Bá Chung (Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội) là một trong những người vực dậy làng nghề quỳ vàng duy nhất của cả nước, khôi phục nghề sơn son dát vàng sau hơn 50 năm bị mai một.

Bộ đôi tác phẩm “Thanh âm Hà Nội” và “Cô đơn giữa Hà Nội”, được phát hành ngày 26/9 trên nền tảng số của các kênh âm nhạc, là món quà âm nhạc chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô của nhạc sĩ Nguyễn Thành Trung.

Ngày nay, dù người đọc đã có nhiều sự lựa chọn hơn trong cách đọc báo, dù số lượng báo in hàng ngày giảm đi so với trước đây thì một bộ phận người Hà Nội vẫn giữ thói quen đọc báo giấy hàng ngày.

Từ những mảnh vải vụn được sưu tầm về, cùng với sự sáng tạo, bàn tay khéo léo của nữ họa sĩ Thanh Thục, những tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống đã ra đời.

Ngày nay, khi mà chiếc áo, chiếc quần có khi chỉ mặc qua một lần chụp ảnh đã thành cũ, thì chuyện vá lại những vết rách trên quần áo là điều hiếm thấy. Thế mà giữa Hà Nội vẫn có một người phụ nữ hàng ngày tỉ mẩn từng đường kim mũi chỉ vá lại những chiếc áo, quần rách.

Mâm cỗ Trung thu chẳng khi nào thiếu được bánh nướng, bánh dẻo. Nhưng ít ai biết rằng, ẩn sau vẻ đẹp tròn đầy của chiếc bánh là cả một quá trình sáng tạo tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo của những nghệ nhân làm khuôn bánh.

Với niềm đam mê gắn bó với nghề truyền thống, giữa phố cổ Hà Nội, có một gia đình vẫn duy trì nghề làm mặt nạ giấy bồi từ nhiều năm nay.

Tại làng Thuỵ Ứng (Hòa Bình, Thường Tín, Hà Nội), những chiếc sừng khi qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân Lê Thị Thuận, đều trở thành những món đồ tinh xảo, đẹp mắt.

Sinh ra trong làng nghề điêu khắc gỗ Ngọc Than (Quốc Oai, Hà Nội), lại có năng khiếu mỹ thuật, nghệ nhân tranh điêu khắc gỗ Bùi Trọng Lăng đã tạo nên những tác phẩm độc đáo mang hồn cốt Việt.

Các thành viên đến từ mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính hay nhóm cộng đồng trong xã hội đều được kết nối với nhau bằng tình yêu âm nhạc, thông qua dự án âm nhạc cộng đồng Hợp xướng đa dạng.

Miệt mài trong suốt 3 năm mới có được tác phẩm ưng ý đầu tiên, nghệ nhân Đỗ Văn Cường đã tạo tác nên những sản phẩm mộc mỹ nghệ đặc sắc mang dấu ấn cá nhân.

Niềm đam mê với các ý tưởng sáng tạo là nguồn cảm hứng để chị Minh Phương cho ra đời các sản phẩm túi xách độc đáo, thân thiện với môi trường, tôn vinh nghề thủ công của Hà Nội mang thương hiệu riêng của mình.

Nghệ nhân Đào Anh Tuấn kế thừa tài năng của cha mình, nghệ nhân ưu tú Đào Văn Soạn, người làm đàn nổi tiếng ở làng nghề làm nhạc cụ dân tộc truyền thống Đào Xá.

Theo đuổi kỹ thuật đắp vẽ thủ công, sử dụng các nguyên vật liệu truyền thống để khảm phù điêu trên các công trình tâm linh, nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy đã có hơn 30 năm gìn giữ nghề “nề ngõa” - một nghề truyền thống với cái tên có lẽ không mấy người từng nghe.

Trong cuộc sống bận rộn và hối hả của Hà Nội, tôi thường có thói quen tìm đến những ngôi chùa, ngôi đình cổ, nơi thời gian dường như ngưng đọng lại. Trong hành trình tìm kiếm, tôi đã gặp gỡ và trò chuyện với nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội).

Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước mà còn là biểu tượng của sự thanh lịch và văn minh. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh không chỉ là mục tiêu của thành phố mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Nghệ đã kế thừa những kỹ thuật đan tre của gia đình và đưa những chiếc lồng tre làng Vác đi đến nhiều nơi trên thế giới.

Sinh ra và lớn lên ở một làng quê, với những buổi trưa hè bơi sông vớt củi, những buổi tối bên ánh đèn dầu, ông và nhóm bạn cùng trang lứa đã tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ.

Yêu nghề, nghệ nhân Vũ Huy Mến âm thầm giữ nghề làm tranh sơn mài truyền thống với chất liệu sơn ta và phù sa sông Hồng.

Trong bối cảnh nhiều làng nghề mỹ nghệ sử dụng sơn công nghiệp để chế tác thì có một người nghệ nhân vẫn kiên nhẫn “trò chuyện” với sơn ta để tạo ra những tác phẩm độc đáo và riêng biệt.

Nữ nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thỏa, người phụ nữ đầu tiên tại làng Đào Thục biểu diễn rối nước, luôn giữ trong mình ngọn lửa đam mê với văn hóa truyền thống của quê hương.

Ở các làng cổ xưa trên mảnh đất Thăng Long hay xứ Đoài, đi đến đâu cũng có thể gặp hình ảnh chiếc cổng làng cổ kính tạo nên sức sống riêng cho ngôi làng.

Gắn bó với những chiếc nón lá từ thời thơ bé, nghệ nhân Lê Văn Tuy đã góp phần đưa những chiếc nón làng Chuông đi khắp cả nước và đến với bạn bè quốc tế.

Khi những vạt nắng chói gắt của mùa hè đổ xuống, độ trung tuần tháng 6, là lúc sen Hà Nội rộ hương.

Những mảnh lấp lánh của nghệ thuật khảm trai, cẩn ốc (khảm xà cừ) đã bước vào cả những giấc mơ của người nghệ nhân Nguyễn Đình Hải.

Cafe Thái, quán cafe ngót trăm tuổi của Hà Nội, nơi cafe được rang thủ công bằng củi, nơi từng cốc cafe thấm đượm mùi khói bình dị và thanh lịch như cốt cách người Hà Nội .

Anh Lê Việt Cường dù mắc bệnh bại liệt từ nhỏ nhưng vẫn quyết tâm đi học và tốt nghiệp trường Cao đẳng Bách khoa. Trải qua nhiều công việc, thấu hiểu sự khó khăn của những người cùng hoàn cảnh, anh Cường đã quyết tâm thành lập HTX “Vụn Art” - nơi người khuyết tật có thể tạo ra những bức tranh ghép từ vải vụn bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.

Không chỉ sáng tạo kỹ thuật để những con tằm tự dệt lụa, nghệ nhân ưu tú Phan Thị Thuận còn là người đầu tiên ở Việt Nam tạo ra những tấm lụa từ sợi tơ sen.

Vào mỗi độ tháng 6 hằng năm, sen Tây Hồ lại bước vào mùa đẹp nhất. Sen Tây Hồ không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp thanh tao, hương thơm ngát đặc trưng mà bởi loại sen này là nguyên liệu chính làm nên trà sen Tây Hồ trứ danh.

Nằm trong căn nhà nhỏ trên phố Lãn Ông, hiệu thuốc y học cổ truyền Nghi Hưng Long được ra đời từ năm 1900, đến nay đã trải qua nhiều thế hệ cha truyền con nối.

Với niềm đam mê được truyền từ những thế hệ trước trong gia đình, nhà văn, nhà báo, nghệ nhân Hoàng Anh Sướng đã dành nhiều thời gian giới thiệu, truyền bá văn hóa trà Việt đến với nhiều người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung.

Cô giáo Lê Minh Nguyệt, một nhà giáo tận tâm đã gắn bó 32 năm với nghề giáo dục, đào tạo ra những con người có ích cho Thủ đô và đất nước.

Không chỉ là một người thành công trong lĩnh vực công nghệ, tiến sĩ Đặng Minh Tuấn còn là một người nghệ sĩ mang yêu nghệ thuật khi ông có thể dung hoà cả hai niềm đam mê của mình trong những sản phẩm âm nhạc qua công nghệ máy tính.

Với sự góp sức của nhà nghiên cứu, sưu tầm Nguyễn Thị Thu Hoà cùng các vị cao niên trong làng, nghệ nhân Đào Đình Chung đã làm hồi sinh dòng tranh đỏ Kim Hoàng bằng một tấm lòng son với nghề truyền thống của làng sau hơn bảy thập kỷ dòng tranh này bị thất truyền.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nghề dát vàng quỳ luôn được người dân xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội gìn giữ và phát triển. Với bề dày truyền thống trên 400 năm, nghề dát vàng quỳ nơi đây đã nức tiếng gần xa.

Ở Hà Nội có nhiều nghề truyền thống đã trở thành niềm tự hào của mảnh đất kinh kỳ Thăng Long. Trong đó có nghề đúc đồng Ngũ Xã. Trải qua thời gian cùng những biến cố của lịch sử,nghề đúc đồng nức tiếng của kinh thành Thăng Long dần mai một. Tuy nhiên đến nay, vẫn có những gia đình còn gìn giữ duy trì và phát triển nghề đúc đồng Ngũ Xã. Một trong số đó là gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng.