'Phù thủy' của những bức phù điêu
Trong cuộc sống bận rộn và hối hả của Hà Nội, tôi thường có thói quen tìm đến những ngôi chùa, ngôi đình cổ, nơi thời gian dường như ngưng đọng lại. Trong hành trình tìm kiếm, tôi đã gặp gỡ và trò chuyện với nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội).
Tôi chìm đắm trong không gian yên tĩnh và cổ kính, nơi những bức phù điêu trên tường và phù điêu linh vật trang trí như kể lại câu chuyện của một thời đã qua. Đứng trước những tác phẩm nghệ thuật đó, tôi chợt nghĩ đến người đã sáng tạo và bảo tồn chúng. Ai sẽ là người giữ gìn những giá trị nghệ thuật này khi thời gian làm chúng phai mờ, hư hỏng? Tôi quyết định tìm hiểu về nghệ nhân làm phù điêu - những người thầm lặng đứng sau tác phẩm tuyệt đẹp này.
Nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy đưa chúng tôi đến một ngôi đình ở địa phương nơi anh vừa tạo tác những bức phù điêu trên tường. Dù ở đây là một ngôi đình mới được trùng tu nhưng sự uy nghi của những bức tranh, bức tượng phù điêu vẫn khiến tôi có cảm giác cổ kính, trang nghiêm. Bức phù điêu Long Cuốn Thủy (Rồng hút nước) là bức mà tôi cảm thấy ấn tượng nhất.
“Trong cảnh Long Cuốn Thủy này, con rồng mà tôi đắp là con rồng thời nhà Nguyễn. Đây có thể được coi là rồng cận đại. Rồng thời Nguyễn nó thừa kế được nhiều nét uy nghiêm, trang trọng của các rồng thời trước cũng như có thêm nhiều chi tiết như mắt to, mũi sư tử, miệng há có răng nanh, đây là những đặc điểm mà rồng thời trước không có. Tuy nhiên những nét này đều được làm mềm mại, mộc mạc nên không cho người xem cảm giác dữ tợn. Hơn nữa rồng thời Nguyễn đều có những câu chuyện liên quan đến đời thường nhưng rồng con rồng mẹ, rồng có lứa đôi nên rồng thời Nguyễn càng đến gần với con người. Cốt yếu của linh vật rồng đối với người dân Việt Nam là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu” - anh Thủy cho biết.
Điểm độc đáo hơn những bức phù điêu khác mà tôi từng được thấy đó chính là sự hợp lý ở những chi tiết khảm sành sứ, nó không hề mang tính phô trương hay màu mè. Những vị trí được khảm sành sứ quả thật rất hợp lý, đưa những chi tiết vốn ít nổi bật như phần thân, phần bụng rồng trở nên hài hòa hơn với tổng thể.
Điều mà tôi nghĩ rằng nó khó có thể được diễn đạt bằng bất cứ văn viết nào hay hình ảnh nào đó chính là sự mềm mại của những đường nét. Có những chỗ tôi phải chạm vào mới cảm nhận được sự tinh tế và nó khác xa với việc chỉ cảm nhận bằng mắt. Khi nhìn bằng mắt tôi chỉ có thể cảm nhận được sự thanh thoát của những chi tiết trên bức phủ điêu nhưng khi cảm nhận những chi tiết bằng tay tôi thấy các cạnh viền của những chi tiết không hề sắc cạnh, cảm giác nhẵn mịn đó đã mang đến một nét đẹp ngay cả về mặt xúc giác. Cảm giác này thấy rõ nhất ở phần nhông trên đầu rồng, bằng mắt thường nó là những chiếc nhông sắc lẹm để tăng thêm cho rồng vẻ uy nghi nhưng khi sờ vào nó lại mềm mại đến lạ thường.
Anh Thủy đưa tôi đến với một ngôi miếu làng, nơi anh đang thực hiện những tác phẩm phù điêu. Tôi có thể thấy các nguyên liệu như giấy dó, mật mía, tro, sợi đay cũng với vôi và nước được bày ngay ngắn trong sân miếu,... anh và các đồng nghiệp đang chuẩn bị nguyên liệu cho buổi làm việc.
Niềm yêu nghề của anh Thủy đã được thể hiện qua cách anh làm việc. Trong công đoạn trộn nguyên liệu tôi thấy có vẻ như các anh làm việc theo cảm tính nên tôi đã hỏi anh, anh nói: “Công đoạn trộn nguyên liệu này mới là bước đầu sự lành nghề của một người thợ đắp phù điêu vì nó chẳng có một công thức cụ thể nào cả. Mọi thứ đều từ kinh nghiệm mà ra, ví dụ có nên cho thêm vôi không hay vôi phải lọc qua lưới thế nào để vôi mịn và dẻo… Tất cả đều đến từ kinh nghiệm”. Sau đó tôi có hỏi anh rằng nếu chúng ta đắp phù điêu bằng xi măng thì có bền hơn đắp vôi giấy không? Anh cười nói “Tưởng thì có vẻ bền hơn đấy nhưng lại không đâu. Cái xi măng này thì đường nét nó cứng, không mềm mại uyển chuyển như vôi giấy thế cho nên về mặt thẩm mỹ là nó đã kém hơn rồi. Còn về độ bền thì xi măng thường bị nứt sau một thời gian, cái tỉ lệ bị nứt vỡ của xi măng là cao hơn so với vôi giấy truyền thống”.
“Lớp trẻ bây giờ khó theo nghề này rồi bởi vì học nghề này cũng mất thời gian mà công việc nó cũng nặng. Suốt ngày leo trèo dàn giáo rồi bê đầu rồng con nghê nặng vài chục cân, khoản này thì mình phải tự làm với đội thợ của mình thôi vì bê những cái đó là phải biết bê, đặt cũng phải có cách đặt sao cho chuẩn” - anh Thủy nói. Có lẽ để trở thành một nghệ nhân phù điêu, thì ngoài sự sáng tạo chúng ta còn cần một đôi tay khỏe khoắn nhưng phải khéo léo.
Anh Nguyễn Văn Bình - một nghệ nhân thế hệ sau có chia sẻ với tôi: Anh Thủy anh ấy sống tốt tính lắm. Anh ấy sẵn sàng truyền nghề, chia sẻ kinh nghiệm cho tôi. Sự tỉ mỉ chi tiết khi làm việc của anh Thủy đã ngấm vào trong tôi trong thời gian trước khi tôi làm việc với anh thường xuyên.
Để góp phần tạo nên một nghệ nhân thì sự hiểu biết về lịch sử là điều không thể thiếu. Anh thường hay tham khảo ý kiến của những nhà nghiên cứu, nhà sử học để củng cố thêm kiến thức của anh về các linh vật cũng như về những bức phù điêu cổ.
“Dù mình có làm nghề 20 hay 30 năm việc tiếp thu học hỏi thêm kiến thức từ những bậc tiền bối là không bao giờ thừa” - anh cười nói với tôi. Cách anh quan sát và nghiên cứu phần nào đã phản ánh phong cách làm việc của anh. Anh tỉ mẩn nhìn sát, chạm tay vào những chi tiết phù điêu mà thế hệ trước đã làm, anh vẽ phác lại những đường nét đó vào cuốn sổ ghi chép.
Lúc ở chùa Bối Khê tôi có quan sát được rằng hai linh vật ở hai phía bên cổng chùa nó không thực sự có sự đồng nhất trong đường nét, ý tôi là có vẻ như nó được làm bởi hai người khác nhau, tôi đưa vấn đề này ra hỏi anh Thủy. Anh nói: “Ngày trước khi làm những công trình chùa đình thì họ thường thuê hai đội làm phù điêu khác nhau. Hai đội sẽ giăng bạt, dựng lều làm ngày làm đêm, họ sẽ thi với nhau xem bên nào làm đẹp hơn. Rồi sẽ có những người ra chấm và nhận xét. Bên nào làm đẹp hơn sẽ được nhận thưởng. Vì là mỗi đội thợ, mỗi người làm họ sẽ có con mắt nghệ thuật khác nhau, nên sản phẩm của họ sẽ không thể giống nhau.”
Tôi có hỏi về những bức tượng phù điêu, điều quan tâm của tôi là về cốt tượng. Tôi có biết cốt tượng cổ được làm từ những cây tre đực già hoặc thời gian sau đó là làm bằng gạch nung. Nhưng với phù điêu hiện đại thì sao? “Còn bây giờ công nghệ phát triển thì làm cốt bằng xi măng cốt thép, như thế thì nó sẽ cứng và cũng nhanh hơn”.
Gặp gỡ nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy và chứng kiến sự tận tâm của anh đối với nghề đắp phù điêu đã giúp tôi hiểu rõ hơn về ý nghĩa của việc bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống. Qua câu chuyện của anh, tôi nhận thấy rằng, dù thời gian có trôi qua, nhưng nhờ những người nghệ nhân như anh Thủy, những tác phẩm nghệ thuật này sẽ luôn được gìn giữ và tiếp nối. Chúng không chỉ là những linh vật trang trí, mà còn mang trong mình hồn cốt và tinh hoa của dân tộc, lan tỏa giá trị văn hóa từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Đón xem Nghệ nhân Hà Nội: Giữ hồn xưa trên phù điêu cổ, phát sóng lúc 10h00 thứ bảy, ngày 10/08/2024 trên Kênh H1, Đài Phát Thanh và Truyền hình Hà Nội.
Minh Tú - Ngọc Trâm
TIN LIÊN QUAN
Ý KIẾN
"Xuống phố 4" - triển lãm tiếp theo trong seri "Xuống phố" đã chính thức khai mạc, đánh dấu sự trở lại của họa sĩ Phạm Bình Chương.
Nhiều vị khách phương xa mới đến Hà Nội đôi ba lần có lẽ sẽ khó để nhận ra giữa không gian ồn ào, tấp nập của Hà Nội hiện đại ngày nay vẫn còn tồn tại những thú vui tao nhã của người Hà Thành. Một trong số đó là nghệ thuật tỉa hoa đu đủ chẻ cánh truyền thống của người Hà Nội.
Thủ đô ngàn năm văn hiến luôn giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của người dân Việt Nam, nhất là người dân Hà Nội. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện khác nhau. Có những người họa sĩ đã dành cả đời mình để lan tỏa tình yêu Hà Nội.
Dưới bàn tay của những nghệ nhân "Vua dép lốp", đôi dép cao su Bác Hồ ngày nay đã có sức sống riêng, mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt trong mắt bạn bè quốc tế. Thương hiệu "Vua dép lốp" được biết đến bởi nghệ nhân Phạm Quang Xuân, người đã gắn bó với công việc tái tạo đôi dép Bác Hồ hơn 60 năm qua.
Với tâm huyết gìn giữ giá trị truyền thống, nghệ nhân Vũ Văn Giỏi đã góp phần hồi sinh nghệ thuật thêu trang phục cung đình tưởng chừng đã mai một.
Vậy là ngày 20/10 sắp về trong niềm hân hoan của những người phụ nữ Việt Nam; là ngày các bà, các mẹ, các cô, các chị, các em được tôn vinh, được dành tặng những bó hoa tươi thắm cùng những lời chúc tốt đẹp nhất.
Hà Nội có rất nhiều làng quê có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Trong đó làng nghề Phùng Xá, xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức từng được mệnh danh là "thủ phủ dâu tằm".
Ông Phạm Quang Nghị, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, đã luôn thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo, xây dựng tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Ðảng bộ và hệ thống chính trị thành phố. Với trách nhiệm và tình yêu dành cho Hà Nội, ông đã góp phần định hình một nền tảng mới cho Hà Nội trở thành điểm tựa, thành động lực phát triển mới để đất rồng bay hội nhập cùng thời đại.
Nhiều khách hàng kỹ tính tìm đến nghệ nhân Nguyễn Thanh Nhàn (Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội) đặt làm những đôi giày thiết kế độc bản, đặc sắc, "may đo" riêng phù hợp đặc điểm của từng đôi chân.
Trong không khí của ngày 10/10, tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, Đại tá, nhà giáo Nguyễn Thụ sống trong ký ức hào hùng của 70 năm trước.
Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu cái đẹp. Và nhà văn Hoàng Quốc Hải chính là một trong những người con đã dành trọn cả cuộc đời mình để ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất này.
Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) là một sự kiện lịch sử quan trọng, khẳng định thắng lợi trọn vẹn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Gần một tuần trước ngày giải phóng, gần 400 thanh niên đã vào Thủ đô để thực hiện nhiệm vụ tiền trạm nhằm tuyên truyền và vận động, giúp nhân dân hiểu rõ hơn về các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Một ngày đầu tháng 10 năm 1954, dân phố cổ xôn xao khi biết tin quân Pháp sẽ rút khỏi Hà Nội. Trong căn nhà ba tầng ở số 80 phố Hàng Đào, cậu bé Lê Bảo Tháp nhấp nhổm, háo hức chờ đón các chú bộ đội tiến về giải phóng Thủ đô.
Người dân Hà Nội có nhiều cách bày tỏ tình yêu với Thủ đô. Nhiều người tự hào về lịch sử lâu đời, văn hóa phong phú, những di sản kiến trúc độc đáo; một số người thường nhắc đến những nét đặc trưng như phố cổ, Hồ Gươm hay những món ăn đặc sản như phở, bún chả...
Chào đón đoàn quân trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954, ngoài cờ hoa, biểu ngữ rợp trời, phố phường Hà Nội thêm vẻ uy nghi bởi những chiếc cổng chào được dân chúng dựng lên ở nhiều cửa ngõ, phố phường Hà Nội. Người đời sau sẽ khó hình dung về những “khải hoàn môn” ngày ấy nếu không có một tay máy trẻ tuổi say mê chụp ảnh cổng chào: Trịnh Đình Tiến.
Hình ảnh người nhạc sĩ mặc comple màu trắng, đánh đàn guitar, hát trong rừng người giữa rợp cờ hoa hân hoan đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954 đã được ghi lại thành khoảnh khắc của lịch sử. Người đàn ông đó - cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, sau này được coi là “ông vua Sonate của Việt Nam”.
Khi mà ai bây giờ cũng thành nhiếp ảnh gia với chiếc điện thoại, giữa lòng Thủ đô Hà Nội còn đó một gia đình bốn đời làm nghề sửa máy ảnh cũ. Người ta gọi đó là một nghề cổ.
Khi nhắc đến đô thị hiện đại, chúng ta thường hình dung ra sự hối hả, nhịp sống tất bật. Nhưng đằng sau những tòa nhà cao tầng, sau từng con phố vẫn tồn tại những giá trị rất đẹp đó là tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Không chỉ là sự sẻ chia về vật chất, mà đó còn là sự đồng lòng trong từng hành động, từng cử chỉ giúp đỡ lẫn nhau chung tay vượt qua thử thách.
Việc tạo tác cho những chiếc đồng hồ tinh xảo không chỉ là công việc, mà còn là sự kết hợp giữa nghệ thuật và sự đam mê và mỗi chiếc đồng hồ đều mang theo dấu ấn cá nhân và tâm huyết của người thợ chạm khắc.
Nghệ nhân Lê Bá Chung (Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội) là một trong những người vực dậy làng nghề quỳ vàng duy nhất của cả nước, khôi phục nghề sơn son dát vàng sau hơn 50 năm bị mai một.
Bộ đôi tác phẩm “Thanh âm Hà Nội” và “Cô đơn giữa Hà Nội”, được phát hành ngày 26/9 trên nền tảng số của các kênh âm nhạc, là món quà âm nhạc chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô của nhạc sĩ Nguyễn Thành Trung.
Ngày nay, dù người đọc đã có nhiều sự lựa chọn hơn trong cách đọc báo, dù số lượng báo in hàng ngày giảm đi so với trước đây thì một bộ phận người Hà Nội vẫn giữ thói quen đọc báo giấy hàng ngày.
Từ những mảnh vải vụn được sưu tầm về, cùng với sự sáng tạo, bàn tay khéo léo của nữ họa sĩ Thanh Thục, những tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống đã ra đời.
Ngày nay, khi mà chiếc áo, chiếc quần có khi chỉ mặc qua một lần chụp ảnh đã thành cũ, thì chuyện vá lại những vết rách trên quần áo là điều hiếm thấy. Thế mà giữa Hà Nội vẫn có một người phụ nữ hàng ngày tỉ mẩn từng đường kim mũi chỉ vá lại những chiếc áo, quần rách.
Mâm cỗ Trung thu chẳng khi nào thiếu được bánh nướng, bánh dẻo. Nhưng ít ai biết rằng, ẩn sau vẻ đẹp tròn đầy của chiếc bánh là cả một quá trình sáng tạo tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo của những nghệ nhân làm khuôn bánh.
Với niềm đam mê gắn bó với nghề truyền thống, giữa phố cổ Hà Nội, có một gia đình vẫn duy trì nghề làm mặt nạ giấy bồi từ nhiều năm nay.
Tại làng Thuỵ Ứng (Hòa Bình, Thường Tín, Hà Nội), những chiếc sừng khi qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân Lê Thị Thuận, đều trở thành những món đồ tinh xảo, đẹp mắt.
Sinh ra trong làng nghề điêu khắc gỗ Ngọc Than (Quốc Oai, Hà Nội), lại có năng khiếu mỹ thuật, nghệ nhân tranh điêu khắc gỗ Bùi Trọng Lăng đã tạo nên những tác phẩm độc đáo mang hồn cốt Việt.
Các thành viên đến từ mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính hay nhóm cộng đồng trong xã hội đều được kết nối với nhau bằng tình yêu âm nhạc, thông qua dự án âm nhạc cộng đồng Hợp xướng đa dạng.
Miệt mài trong suốt 3 năm mới có được tác phẩm ưng ý đầu tiên, nghệ nhân Đỗ Văn Cường đã tạo tác nên những sản phẩm mộc mỹ nghệ đặc sắc mang dấu ấn cá nhân.
Niềm đam mê với các ý tưởng sáng tạo là nguồn cảm hứng để chị Minh Phương cho ra đời các sản phẩm túi xách độc đáo, thân thiện với môi trường, tôn vinh nghề thủ công của Hà Nội mang thương hiệu riêng của mình.
Nghệ nhân Đào Anh Tuấn kế thừa tài năng của cha mình, nghệ nhân ưu tú Đào Văn Soạn, người làm đàn nổi tiếng ở làng nghề làm nhạc cụ dân tộc truyền thống Đào Xá.
Theo đuổi kỹ thuật đắp vẽ thủ công, sử dụng các nguyên vật liệu truyền thống để khảm phù điêu trên các công trình tâm linh, nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy đã có hơn 30 năm gìn giữ nghề “nề ngõa” - một nghề truyền thống với cái tên có lẽ không mấy người từng nghe.
Trong cuộc sống bận rộn và hối hả của Hà Nội, tôi thường có thói quen tìm đến những ngôi chùa, ngôi đình cổ, nơi thời gian dường như ngưng đọng lại. Trong hành trình tìm kiếm, tôi đã gặp gỡ và trò chuyện với nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội).
Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước mà còn là biểu tượng của sự thanh lịch và văn minh. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh không chỉ là mục tiêu của thành phố mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Nghệ đã kế thừa những kỹ thuật đan tre của gia đình và đưa những chiếc lồng tre làng Vác đi đến nhiều nơi trên thế giới.
Sinh ra và lớn lên ở một làng quê, với những buổi trưa hè bơi sông vớt củi, những buổi tối bên ánh đèn dầu, ông và nhóm bạn cùng trang lứa đã tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ.
Yêu nghề, nghệ nhân Vũ Huy Mến âm thầm giữ nghề làm tranh sơn mài truyền thống với chất liệu sơn ta và phù sa sông Hồng.
Trong bối cảnh nhiều làng nghề mỹ nghệ sử dụng sơn công nghiệp để chế tác thì có một người nghệ nhân vẫn kiên nhẫn “trò chuyện” với sơn ta để tạo ra những tác phẩm độc đáo và riêng biệt.
Nữ nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thỏa, người phụ nữ đầu tiên tại làng Đào Thục biểu diễn rối nước, luôn giữ trong mình ngọn lửa đam mê với văn hóa truyền thống của quê hương.
Ở các làng cổ xưa trên mảnh đất Thăng Long hay xứ Đoài, đi đến đâu cũng có thể gặp hình ảnh chiếc cổng làng cổ kính tạo nên sức sống riêng cho ngôi làng.
Gắn bó với những chiếc nón lá từ thời thơ bé, nghệ nhân Lê Văn Tuy đã góp phần đưa những chiếc nón làng Chuông đi khắp cả nước và đến với bạn bè quốc tế.
Khi những vạt nắng chói gắt của mùa hè đổ xuống, độ trung tuần tháng 6, là lúc sen Hà Nội rộ hương.
Những mảnh lấp lánh của nghệ thuật khảm trai, cẩn ốc (khảm xà cừ) đã bước vào cả những giấc mơ của người nghệ nhân Nguyễn Đình Hải.
Cafe Thái, quán cafe ngót trăm tuổi của Hà Nội, nơi cafe được rang thủ công bằng củi, nơi từng cốc cafe thấm đượm mùi khói bình dị và thanh lịch như cốt cách người Hà Nội .
Anh Lê Việt Cường dù mắc bệnh bại liệt từ nhỏ nhưng vẫn quyết tâm đi học và tốt nghiệp trường Cao đẳng Bách khoa. Trải qua nhiều công việc, thấu hiểu sự khó khăn của những người cùng hoàn cảnh, anh Cường đã quyết tâm thành lập HTX “Vụn Art” - nơi người khuyết tật có thể tạo ra những bức tranh ghép từ vải vụn bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.
0