Tàu điện leng keng – kí ức Hà Nội một thế kỷ
Có một âm thanh chắc chắn đã in đậm trong kí ức của nhiều người Hà Nội thế kỷ trước – tiếng leng keng của tàu điện. Ngày nay, bóng hình những đoàn tàu điện chạy quanh Thủ đô đã nhường chỗ cho những phương tiện khác. Nhưng cách đây cả thế kỷ, tàu điện từng là loại phương tiện công cộng hiện đại bậc nhất. Dường như, tàu điện đã góp phần làm nên phong vị riêng có của mảnh đất kinh kỳ.
“Đúng là không bao giờ quên được tiếng leng keng của tàu điện ngày xưa thật, cứ mỗi một lần sáng ngày ra cái tàu điện nó chạy vòng bờ hồ xuống chợ Mơ là cái tiếng leng keng nhà cô ngay đầu Bà Triệu mà.”; “Tiếng leng keng, tiếng của tàu điện ngày xưa đúng là cái âm thanh không thể nào quên được”; “Tàu điện khi mà xuất hiện ở Hà Nội nó làm thay đổi bộ mặt đô thị, là phương tiện giao thông công cộng đầu tiên ở đô thị này”... Đây là chia sẻ của những người dân Thủ đô khi được hỏi về một ký ức không phải mờ, gắn liền với một phần lịch sử của Hà Nội, đó là tàu điện.
Tháng 5/1899, Toàn quyền Đông Dương ký ban hành một nghị định thiết lập dự án tàu điện tiện ích công cộng. Đến năm 1900, tàu điện chính thức đi vào hoạt động. Thuở ban đầu, hệ thống tàu điện chạy trên 3 tuyến, đều tỏa ra từ bờ hồ Hoàn Kiếm tới các cửa ô.
Tới năm 1929, từ Ga tàu điện Bờ Hồ có 6 tuyến đi các ngả: lên Yên Phụ, chợ Bưởi, sang Cầu Giấy, vào Hà Đông, xuống chợ Mơ và Vọng. Tổng chiều dài mạng lưới đường xe điện khi ấy đã dài khoảng 30 km. Nghĩa là các ngả xe điện này toả ra từ trung tâm thành phố tới ven đô. Tàu điện thực sự kết nối ngoại ô với nội thành, là phương tiện đi lại quen thuộc của người dân thời ấy.
Trong giai đoạn đầu tiên khi tàu điện xuất hiện tại Hà Nội, tất cả những công nghệ gọi là mới nhất, hiện đại nhất đầu thế kỷ 20 họ đưa sang Việt Nam, từ đầu máy đến toa xe đến cả hệ thống máy phát điện để phục vụ cho chuyển động của cái tàu điện, đó là những máy móc và thiết bị mới nhất, tốt nhất khi đó. Cho đến khoảng những năm 1929-1930 mới có một cuộc thay đổi lần 2; những cái phục vụ tàu điện bị cũ rồi, nên người ta thay bằng cái mới”, nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến nói.
“Nhà tôi là ở phố Hàng Hành. Khi ra đến đầu phố Hàng Hành thì đi qua cái bể nước tròn là đến đúng bến tàu điện. Khi qua ngã 3 ngã 4 thì có tiếng leng keng dậm ở dưới đất, ở dưới cái sàn tàu cạnh liền với cái đầu máy. Khi qua ngã 3 ngã 4, người ta báo hiệu những người đi xung quanh đấy, phải nhớ dừng lại”, Bà Nguyễn Thị Đức Hạnh – Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội, nhớ lại.
Tàu điện lúc ấy có một quy ước về các thông số kỹ thuật. Khổ đường ray có chiều rộng 1m. Bề rộng của tàu điện cũng như khoang chứa hàng hóa không quá 2m. Tàu điện dài tối đa 25m, cao từ 2m70 – 3m20. Vận tốc tối đa 20km/h.
“Một số người rất nhầm lẫn là trước đây có một nhà máy đèn Bờ Hồ, nhưng nó phát một công suất rất là bé. Nó chỉ đủ phục vụ cho một số cơ quan công quyền và chiếu sáng công cộng ở quanh khu vực đó thôi. Và tàu điện đầu thế kỉ 20 là sử dụng một hệ thống máy phát riêng. Sau năm 1925,1926 khi mà nhà máy điện Yên Phụ hoàn thành, thì tàu điện mới bắt đầu chạy bằng điện lưới, điện do nhà máy điện Yên Phụ phát ra.”, nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến nói.
Đến những ngày toàn quốc kháng chiến, những ngày Hà Nội khói lửa ngập trời, các toa tàu điện trở thành chướng ngại vật rất có hiệu quả, ngăn chặn bước đi của các đoàn xe cơ giới của thực dân xâm lược trên các nẻo đường góc phố có đường tàu điện đi qua. Sau ngày giải phóng Thủ đô, tất cả các đường ray, thiết bị và tàu điện được chuyển giao cho nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản. Mọi hoạt động khai thác trong giai đoạn này vẫn được duy trì theo cung cách cũ của Pháp, nhưng có thay đổi cho phù hợp với tình hình lúc bấy giờ.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến chia sẻ: “Tàu điện ở Hà Nội có một đời sống mà tôi thấy rất thú vị. Đấy là nơi kiếm sống của những người hát xẩm, những người bán hàng rong. Về chuyện nhảy tàu, chắc chắn trước năm 1954 là không có nhảy tàu, bởi vì tất cả những người bán vé, gọi là sơ-vơ người Pháp họ cấm tuyệt đối. Và trước cửa lên xuống tàu có một cái dây xích, tàu bắt đầu chuyển động là người sơ-vơ đấy họ sẽ móc cái dây xích để ai muốn nhảy xuống, nhảy lên đều không được. Còn có những quy định rất ngặt nghèo ví dụ như say rượu là không được lên tàu, mùi hôi hám cũng không được lên. Cái gì bẩn thỉu nhem nhuốc là người ta cũng không cho lên tàu. Thế nhưng sau 1954 việc đi tàu có sự thay đổi, nếu đi xuống bến nó xa, thì tàu điện đi qua họ nhảy lên, vì tốc độ của tàu điện cũng không phải là quá nhanh, chủ yếu nhảy tàu điện là học sinh, thanh niên.”
Sau ngày giải phóng, hệ thống tàu điện Hà Nội vẫn tiếp tục hoạt động thêm 3 thập kỉ. Tới đầu những năm 1990, tàu điện dừng hoạt động bởi sự xuất hiện của các dự án lớn liên quan đến giao thông công cộng ở Hà Nội. Đường ray, cột, dây điện bị tháo bỏ. Gần một thế kỷ, tàu điện phục vụ đi lại cho những người dân Hà Nội. Như một lẽ tự nhiên, những hình ảnh về tàu điện và âm thanh leng keng đã trở thành một phần kí ức không thể quên của người Hà Nội xưa.
TIN LIÊN QUAN
Ý KIẾN
Cùng với áo dài và nón lá, guốc mộc từ thời xa xưa đã tạo nên một vẻ đẹp rất Việt. Theo thời gian, guốc mốc dần bị lãng quên. Thế nhưng nhà thiết kế Hoàng Huệ đã đưa guốc mộc từ ký ức trở về cuộc sống ngày nay, với những họa tiết hiện đại, có tính ứng dụng cao.
Sự quyến rũ của Hồ Gươm trong từng khoảnh khắc đã trở thành cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ. Trong số đó có nhà báo Hà Hồng, nguyên Trưởng ban Khoa Giáo của Báo Nhân dân, đồng thời là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nhiếp ảnh Báo Nhân dân, một người con Hà Tĩnh nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội.
"Xuống phố 4" - triển lãm tiếp theo trong seri "Xuống phố" đã chính thức khai mạc, đánh dấu sự trở lại của họa sĩ Phạm Bình Chương.
Nhiều vị khách phương xa mới đến Hà Nội đôi ba lần có lẽ sẽ khó để nhận ra giữa không gian ồn ào, tấp nập của Hà Nội hiện đại ngày nay vẫn còn tồn tại những thú vui tao nhã của người Hà Thành. Một trong số đó là nghệ thuật tỉa hoa đu đủ chẻ cánh truyền thống của người Hà Nội.
Thủ đô ngàn năm văn hiến luôn giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của người dân Việt Nam, nhất là người dân Hà Nội. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện khác nhau. Có những người họa sĩ đã dành cả đời mình để lan tỏa tình yêu Hà Nội.
Với tâm huyết gìn giữ giá trị truyền thống, nghệ nhân Vũ Văn Giỏi đã góp phần hồi sinh nghệ thuật thêu trang phục cung đình tưởng chừng đã mai một.
Giữa cuộc sống hiện đại, nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, người học trò xuất sắc của cố nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, miệt mài gìn giữ nghệ thuật hát xẩm và đưa xẩm Hà Thành tới gần hơn với người Hà Nội.
Vậy là ngày 20/10 sắp về trong niềm hân hoan của những người phụ nữ Việt Nam; là ngày các bà, các mẹ, các cô, các chị, các em được tôn vinh, được dành tặng những bó hoa tươi thắm cùng những lời chúc tốt đẹp nhất.
Hà Nội có rất nhiều làng quê có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Trong đó làng nghề Phùng Xá, xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức từng được mệnh danh là "thủ phủ dâu tằm".
Ông Phạm Quang Nghị, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, đã luôn thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo, xây dựng tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Ðảng bộ và hệ thống chính trị thành phố. Với trách nhiệm và tình yêu dành cho Hà Nội, ông đã góp phần định hình một nền tảng mới cho Hà Nội trở thành điểm tựa, thành động lực phát triển mới để đất rồng bay hội nhập cùng thời đại.
Nhiều khách hàng kỹ tính tìm đến nghệ nhân Nguyễn Thanh Nhàn (Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội) đặt làm những đôi giày thiết kế độc bản, đặc sắc, "may đo" riêng phù hợp đặc điểm của từng đôi chân.
Trong không khí của ngày 10/10, tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, Đại tá, nhà giáo Nguyễn Thụ sống trong ký ức hào hùng của 70 năm trước.
Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu cái đẹp. Và nhà văn Hoàng Quốc Hải chính là một trong những người con đã dành trọn cả cuộc đời mình để ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất này.
Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) là một sự kiện lịch sử quan trọng, khẳng định thắng lợi trọn vẹn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Gần một tuần trước ngày giải phóng, gần 400 thanh niên đã vào Thủ đô để thực hiện nhiệm vụ tiền trạm nhằm tuyên truyền và vận động, giúp nhân dân hiểu rõ hơn về các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Một ngày đầu tháng 10 năm 1954, dân phố cổ xôn xao khi biết tin quân Pháp sẽ rút khỏi Hà Nội. Trong căn nhà ba tầng ở số 80 phố Hàng Đào, cậu bé Lê Bảo Tháp nhấp nhổm, háo hức chờ đón các chú bộ đội tiến về giải phóng Thủ đô.
Người dân Hà Nội có nhiều cách bày tỏ tình yêu với Thủ đô. Nhiều người tự hào về lịch sử lâu đời, văn hóa phong phú, những di sản kiến trúc độc đáo; một số người thường nhắc đến những nét đặc trưng như phố cổ, Hồ Gươm hay những món ăn đặc sản như phở, bún chả...
Chào đón đoàn quân trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954, ngoài cờ hoa, biểu ngữ rợp trời, phố phường Hà Nội thêm vẻ uy nghi bởi những chiếc cổng chào được dân chúng dựng lên ở nhiều cửa ngõ, phố phường Hà Nội. Người đời sau sẽ khó hình dung về những “khải hoàn môn” ngày ấy nếu không có một tay máy trẻ tuổi say mê chụp ảnh cổng chào: Trịnh Đình Tiến.
Hình ảnh người nhạc sĩ mặc comple màu trắng, đánh đàn guitar, hát trong rừng người giữa rợp cờ hoa hân hoan đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954 đã được ghi lại thành khoảnh khắc của lịch sử. Người đàn ông đó - cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, sau này được coi là “ông vua Sonate của Việt Nam”.
Khi mà ai bây giờ cũng thành nhiếp ảnh gia với chiếc điện thoại, giữa lòng Thủ đô Hà Nội còn đó một gia đình bốn đời làm nghề sửa máy ảnh cũ. Người ta gọi đó là một nghề cổ.
Khi nhắc đến đô thị hiện đại, chúng ta thường hình dung ra sự hối hả, nhịp sống tất bật. Nhưng đằng sau những tòa nhà cao tầng, sau từng con phố vẫn tồn tại những giá trị rất đẹp đó là tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Không chỉ là sự sẻ chia về vật chất, mà đó còn là sự đồng lòng trong từng hành động, từng cử chỉ giúp đỡ lẫn nhau chung tay vượt qua thử thách.
Việc tạo tác cho những chiếc đồng hồ tinh xảo không chỉ là công việc, mà còn là sự kết hợp giữa nghệ thuật và sự đam mê và mỗi chiếc đồng hồ đều mang theo dấu ấn cá nhân và tâm huyết của người thợ chạm khắc.
Nghệ nhân Lê Bá Chung (Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội) là một trong những người vực dậy làng nghề quỳ vàng duy nhất của cả nước, khôi phục nghề sơn son dát vàng sau hơn 50 năm bị mai một.
Bộ đôi tác phẩm “Thanh âm Hà Nội” và “Cô đơn giữa Hà Nội”, được phát hành ngày 26/9 trên nền tảng số của các kênh âm nhạc, là món quà âm nhạc chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô của nhạc sĩ Nguyễn Thành Trung.
Ngày nay, dù người đọc đã có nhiều sự lựa chọn hơn trong cách đọc báo, dù số lượng báo in hàng ngày giảm đi so với trước đây thì một bộ phận người Hà Nội vẫn giữ thói quen đọc báo giấy hàng ngày.
Từ những mảnh vải vụn được sưu tầm về, cùng với sự sáng tạo, bàn tay khéo léo của nữ họa sĩ Thanh Thục, những tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống đã ra đời.
Ngày nay, khi mà chiếc áo, chiếc quần có khi chỉ mặc qua một lần chụp ảnh đã thành cũ, thì chuyện vá lại những vết rách trên quần áo là điều hiếm thấy. Thế mà giữa Hà Nội vẫn có một người phụ nữ hàng ngày tỉ mẩn từng đường kim mũi chỉ vá lại những chiếc áo, quần rách.
Mâm cỗ Trung thu chẳng khi nào thiếu được bánh nướng, bánh dẻo. Nhưng ít ai biết rằng, ẩn sau vẻ đẹp tròn đầy của chiếc bánh là cả một quá trình sáng tạo tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo của những nghệ nhân làm khuôn bánh.
Với niềm đam mê gắn bó với nghề truyền thống, giữa phố cổ Hà Nội, có một gia đình vẫn duy trì nghề làm mặt nạ giấy bồi từ nhiều năm nay.
Tại làng Thuỵ Ứng (Hòa Bình, Thường Tín, Hà Nội), những chiếc sừng khi qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân Lê Thị Thuận, đều trở thành những món đồ tinh xảo, đẹp mắt.
Sinh ra trong làng nghề điêu khắc gỗ Ngọc Than (Quốc Oai, Hà Nội), lại có năng khiếu mỹ thuật, nghệ nhân tranh điêu khắc gỗ Bùi Trọng Lăng đã tạo nên những tác phẩm độc đáo mang hồn cốt Việt.
Các thành viên đến từ mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính hay nhóm cộng đồng trong xã hội đều được kết nối với nhau bằng tình yêu âm nhạc, thông qua dự án âm nhạc cộng đồng Hợp xướng đa dạng.
Miệt mài trong suốt 3 năm mới có được tác phẩm ưng ý đầu tiên, nghệ nhân Đỗ Văn Cường đã tạo tác nên những sản phẩm mộc mỹ nghệ đặc sắc mang dấu ấn cá nhân.
Niềm đam mê với các ý tưởng sáng tạo là nguồn cảm hứng để chị Minh Phương cho ra đời các sản phẩm túi xách độc đáo, thân thiện với môi trường, tôn vinh nghề thủ công của Hà Nội mang thương hiệu riêng của mình.
Nghệ nhân Đào Anh Tuấn kế thừa tài năng của cha mình, nghệ nhân ưu tú Đào Văn Soạn, người làm đàn nổi tiếng ở làng nghề làm nhạc cụ dân tộc truyền thống Đào Xá.
Theo đuổi kỹ thuật đắp vẽ thủ công, sử dụng các nguyên vật liệu truyền thống để khảm phù điêu trên các công trình tâm linh, nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy đã có hơn 30 năm gìn giữ nghề “nề ngõa” - một nghề truyền thống với cái tên có lẽ không mấy người từng nghe.
Trong cuộc sống bận rộn và hối hả của Hà Nội, tôi thường có thói quen tìm đến những ngôi chùa, ngôi đình cổ, nơi thời gian dường như ngưng đọng lại. Trong hành trình tìm kiếm, tôi đã gặp gỡ và trò chuyện với nghệ nhân Nguyễn Đức Thủy (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội).
Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước mà còn là biểu tượng của sự thanh lịch và văn minh. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh không chỉ là mục tiêu của thành phố mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Nghệ đã kế thừa những kỹ thuật đan tre của gia đình và đưa những chiếc lồng tre làng Vác đi đến nhiều nơi trên thế giới.
Sinh ra và lớn lên ở một làng quê, với những buổi trưa hè bơi sông vớt củi, những buổi tối bên ánh đèn dầu, ông và nhóm bạn cùng trang lứa đã tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ.
Yêu nghề, nghệ nhân Vũ Huy Mến âm thầm giữ nghề làm tranh sơn mài truyền thống với chất liệu sơn ta và phù sa sông Hồng.
Trong bối cảnh nhiều làng nghề mỹ nghệ sử dụng sơn công nghiệp để chế tác thì có một người nghệ nhân vẫn kiên nhẫn “trò chuyện” với sơn ta để tạo ra những tác phẩm độc đáo và riêng biệt.
Nữ nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thỏa, người phụ nữ đầu tiên tại làng Đào Thục biểu diễn rối nước, luôn giữ trong mình ngọn lửa đam mê với văn hóa truyền thống của quê hương.
Ở các làng cổ xưa trên mảnh đất Thăng Long hay xứ Đoài, đi đến đâu cũng có thể gặp hình ảnh chiếc cổng làng cổ kính tạo nên sức sống riêng cho ngôi làng.
Gắn bó với những chiếc nón lá từ thời thơ bé, nghệ nhân Lê Văn Tuy đã góp phần đưa những chiếc nón làng Chuông đi khắp cả nước và đến với bạn bè quốc tế.
Khi những vạt nắng chói gắt của mùa hè đổ xuống, độ trung tuần tháng 6, là lúc sen Hà Nội rộ hương.
Những mảnh lấp lánh của nghệ thuật khảm trai, cẩn ốc (khảm xà cừ) đã bước vào cả những giấc mơ của người nghệ nhân Nguyễn Đình Hải.
0