Trạng nguyên Nguyễn Thiến | Danh nhân Thăng Long - Hà Nội | 18/11/2023

Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hiệu là Cảo Xuyên, sinh năm 1495 tại làng cổ Canh Hoạch. Từ nhỏ, ông đã được rèn cặp, lại thêm chăm chỉ, chịu khó học hành cùng với tư chất thông minh hơn người, khoa thi Nhâm Thìn năm 1532, niên hiệu Đại chính thứ 3, đời vua Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Thiến đã thi đỗ Đệ nhất Giáp, Tiến sĩ cập Đệ Đệ nhất danh. Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông được vua tôi nhà Mạc vô cùng trọng dụng.

User
Ý KIẾN

Từ bao đời nay, mảnh đất Thăng Long - Hà Nội là nơi sinh thành, nuôi dưỡng nhiều hiền tài cho đất nước. Lật dở từng trang lịch sử dân tộc, dấu ấn các anh hùng, hào kiệt Thăng Long - Hà Nội vẫn mãi tỏa sáng rạng ngời cùng những chiến công hiển hách. Trong hằng hà những anh hùng, hào kiệt Thăng Long được lịch sử ghi nhận thì Thượng tướng quân Trần Khát Chân - vị danh tướng có công dẹp giặc Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi là một minh chứng chân thực.

Xã Phương Liệt xưa kia thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín , trấn Sơn Nam , nay là phường Phương Liệt , quận Thanh Xuân , Hà Nội , nơi đây đã sản sinh ra nhiều người tài giỏi , danh nhân văn hóa có công với đất nước qua các thời kỳ . Trong những người con đỗ đạt của Làng Phương Liệt có Trạng nguyên Lưu Danh Công. Cuộc đời và sự nghiệp làm quan của ông tuy không dài , nhưng tấm gương học rộng biết nhiều và tiếng thơm về sự hiền đức của ông để lại cho hậu thế và quê hương Phương Liệt vẫn còn lại cho đến ngày nay .

Trịnh Thị Ngọc Trúc sinh năm 1595, từ thưở nhỏ đã nổi tiếng sắc hương chốn kinh kỳ. Là vợ vua con chúa, Trịnh Thị Ngọc Trúc nổi bật giữa các nữ quý tộc và khác hẳn họ ở chỗ rất biết đem trí tuệ và đức hạnh thông sáng của mình dùng vào việc học hành nghiên cứu chữ nghĩa sách vở. Do đó, bà nổi tiếng là người uyên bác và cao thượng.

Nguyễn Tư Nghiêm là một trong “tứ trụ” của hội hoạ đương đại Việt Nam, cùng với các danh hoạ Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm là một viên ngọc đắt giá, là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, sáng tạo đầy nghiêm túc. Ông được giới mỹ thuật ngưỡng mộ, coi là bậc thầy, là cây đại thụ của nền hội hoạ Việt Nam hiện đại.

Thăng Long - Hà Nội trải qua biến thiên của thời gian không chỉ nổi danh là vùng đất ngàn năm văn hiến, mà còn nức tiếng là mảnh đất trăm nghề, gắn liền với các làng nghề truyền thống cùng những ông tổ nghề nổi tiếng yêu nước, thương dân. Một trong số đó không thể không nhắc tới ông tổ nghề thêu Lê Công Hành - Vị Thượng thư Bộ Công thời Lê - Trịnh tài danh đã có công lớn gây dựng và phát triển nghề thêu trở thành một nghề truyền thống đẹp của dân tộc.

Văn Dĩ Thành sinh năm 1380, tổ tiên ông vốn mang gốc họ Hoa ở Bảo Hà (Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Ngay tử nhỏ, Văn Dĩ Thành đã thể hiện phẩm chất thông minh, bản lĩnh hơn người. Năm 1407 nhà Minh mang quân sang xâm lược, Văn Dĩ Thành đã tập hợp lực lượng, cùng Lê Ngộ nổi dậy chống quân Minh. Lúc này ông đã là thầy học có uy tín, lại là thầy thuốc giỏi từng cứu sống nhiều người nên rất được nể phục.

Thăng Long Hà Nội, mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến luôn tự hào là nơi có bề dày văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế, nơi hội tụ của nhiều bậc tài hoa lỗi lạc, đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước. Trong số đó, không thể không nhắc đến nhà sử học Lê Văn Hưu, người mở đầu biên soạn bộ quốc sử chính thống “Đại Việt sử ký ” - bộ quốc sử đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội là nơi có truyền thống hiếu học, nơi sản sinh ra nhiều nhân tài có công lớn với đất nước. Trong những người đỗ đạt của làng khoa bảng Nguyệt Áng, nhiều người đã đem hết tài năng phụng sự đất nước, tiêu biểu nhất là Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh. Trong sử Việt, ông nổi tiếng bởi sự khảng khái, liêm khiết.

Là một trí thức yêu nước, một người thầy, một dịch giả, một nhà báo, nhà lý luận nghiên cứu văn học Việt Nam, từng kinh qua nhiều vị trí và giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng trong cuộc sống đời thường học giả Đỗ Đức Dục lại là một con người giản dị, sâu sắc, nghĩa tình, thủy chung trọn vẹn. Bất luận trong hoàn cảnh nào ông vẫn giữ cho mình khí chất, tâm hồn lạc quan và một trái tim nồng ấm.

Cao Bá Quát, tự là Chu Thần, sinh năm 1808 tại làng Phú Thị, nay là xã Phú Thị, Huyện Gia Lâm, Hà Nội. Năm 32 tuổi, Cao Bá Quát được tiến cử vào triều đình, nhận chức Hành tẩu ở Bộ Lễ. Ít lâu sau, ông được cử làm sơ khảo Trường thi Thừa Thiên. Tại đây, câu chuyện dùng muội đèn chữa bài thi cho một số sĩ tử, chỉ vì tiếc thương cho tài năng của họ, đã khiến cho cuộc đời của Cao Bá Quát gặp nhiều biến cố.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tên khai sinh là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 1/1/1914 tại huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Thời thơ ấu, cha mất sớm, nhà đông anh chị em nên Nguyễn Vịnh phải bỏ học sớm để làm thuê. Tuy vậy chí lớn trong tâm tưởng của con người trí thức vẫn luôn thôi thúc ông tìm sách báo để tự học nâng cao kiến thức. Chứng kiến bao nỗi đau thương của quê hương, đất nước, người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Vịnh nung nấu hoài bão cứu nước, ông bước vào con đường hoạt động cách mạng, chấp nhận mọi gian nan, hiểm nguy phía trước.

Ngô Sĩ Liên sinh năm 1380, xuất thân từ một gia đình nho học. Từ nhỏ ông đã bộc lộ tài năng xuất chúng về văn học, sử học. Năm 1479, Ngô Sĩ Liên được giao nhiệm vụ biên soạn bộ sử chính thống của Việt Nam. Ông cùng với các cộng sự đã dành nhiều năm trời để sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, viết lách. Cuối cùng, bộ Đại Việt sử ký toàn thư đã được hoàn thành vào năm 1483.

Tiến sĩ, Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Sư Mạnh sinh năm Mậu Dần 1458 đời Hồng Đức tại làng Cổ Đô, xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, Hà Nội. Khi đang làm Thượng thư bộ Lễ, Nguyễn Sư Mạnh được cử đi sứ nhà Minh (năm 1500). Tài năng của ông đã làm cho vua Minh phải khâm phục và trọng nể, phong cho chức Thượng thư của Trung Quốc, ban cho áo mũ, thẻ bài. Từ đó, người đời gọi ông là 'Lưỡng quốc Thượng thư'.

Từ nhiều đời nay, vùng quê Liên Bạt, huyện Ứng Hòa vẫn luôn tự hào là vùng đất cổ giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Mảnh đất yên bình này không chỉ nổi tiếng với truyền thống hiếu học, mà còn là quê hương của biết bao người con ưu tú làm rạng danh non sông đất nước. Một trong số đó không thể không nhắc đến Nguyễn Thượng Hiền - nhà văn hóa lớn của dân tộc. Mang trí lớn vì dân, vì nước, ông đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời là một tên tuổi lớn trong dòng chảy của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế 20.

Ngô Thì Nhậm tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan 'Hộ khoa cấp sự trung' ở bộ Hộ dưới triều Lê - Trịnh. Không phụ lòng tin tưởng của vượng thượng, Ngô Thì Nhậm dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước. Ông đã tìm ra lối đi lên trong những rắm rối của cung đình thời Lê - Trịnh mà vẫn giữ tấm lòng hướng thiện.

Giáo sư Đặng Văn Ngữ là một nhà khoa học, nhà giáo, một người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Ông là người đầu tiên nghiên cứu thành công cách sản xuất penicillin ở Việt Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Không chỉ đóng góp nhiều thành tựu to lớn cho sự nghiệp khoa học, Giáo sư Đặng Văn Ngữ còn là một nhà cách mạng lỗi lạc của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Để có được những thành tựu đáng nể trong công nghiệp quốc phòng Việt Nam, không thể không nhắc tới Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa. Ông là một trong những vị tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, là nhà khoa học lớn, đại diện xuất sắc cho đội ngũ khoa học Việt Nam. Ông đã nghiên cứu ra nhiều loại vũ khí quan trọng, góp phần nâng cao sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Dương Khuê sinh năm Kỷ Hợi 1839, là một nhà thơ, nhà nho yêu nước. Là một viên chức giao thời, con đường làm quan của Dương Khuê không mấy suôn sẻ, vì thế các sáng tác của ông chính là một phương tiện giúp ông giải toả đối với hiện thực. Với sự tinh luyện về ngôn ngữ và sự hài hoà trong thanh điệu, những sáng tác của ông luôn cuốn hút hấp dẫn người nghe bởi lời thơ, ca đã đạt tới trình độ thanh thoát, uyển chuyển và hóm hỉnh.

Không chỉ nổi tiếng là một lương thần, một danh nho, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan còn là một thi sĩ tài hoa với một kho tàng văn chương đồ sộ. Suốt cuộc đời 86 năm sống trên dương thế, Phùng Khắc Khoan đã để lại cho đời một nhân cách lớn, một di sản tinh thần quý giá, làm hiển danh dòng họ Phùng và là niềm tự hào của bà con Kẻ Bùng, Thạch Thất.

Nguyễn Trực, tự là Công Dĩnh, nguyên quán tại làng Bối Khê, nay thuộc xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội. May mắn được sinh ra trong một gia đình nhà nho hiếu học, do vậy, ngay từ nhỏ, Nguyễn Trực đã được mẹ cha rèn cặp, chăm chỉ đèn sách. Năm 1457, nhà Minh tổ chức kỳ thi Đình, ông đã tự ứng thi, kết quả ông đỗ Trạng nguyên trước sự bái phục của vua tôi nhà Minh. Chính bởi vậy, danh hiệu Lưỡng quốc Trạng nguyên được gắn với Nguyễn Trực từ đó.

'Hiền tài là nguyên khí quốc gia' là một tư tưởng xuyên suốt và vang danh muôn đời của danh nhân văn hoá Thân Nhân Trung. Ông là một nhà chính trị, một nhà văn hoá luôn dốc hết sức cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà. Ông xứng đáng là người đứng đầu trong những văn thần nổi danh của triều Lê, góp phần đưa đất nước phát triển thịnh trị vào nửa cuối thế kỷ XV trên mảnh đất kinh thành Thăng Long.

Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hiệu là Cảo Xuyên, sinh năm 1495 tại làng cổ Canh Hoạch. Từ nhỏ, ông đã được rèn cặp, lại thêm chăm chỉ, chịu khó học hành cùng với tư chất thông minh hơn người, khoa thi Nhâm Thìn năm 1532, niên hiệu Đại chính thứ 3, đời vua Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Thiến đã thi đỗ Đệ nhất Giáp, Tiến sĩ cập Đệ Đệ nhất danh. Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông được vua tôi nhà Mạc vô cùng trọng dụng.

Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được giao chức vụ thay mặt vua và hoàng hậu quản lý mọi việc trong cung, lập lại kỷ cương, dạy cung nữ và giảng sách cho vua. Cuộc đời và sự nghiệp của bà là một minh chứng sinh động cho tài năng, đức độ và nghị lực phi thường của người phụ nữ Việt Nam. Bà đã vượt qua những rào cản của xã hội phong kiến để khẳng định tài năng và trí tuệ của mình.

Trong thời điểm đất nước đang bộn bề khó khăn, vất vả, trọng trách Chủ tịch thành phố Hà Nội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho bác sĩ Trần Duy Hưng. Bác Hồ đã nhìn thấy ở ông một nhân cách, một tấm lòng hết mình vì dân, vì nước. Sự nhìn nhận sáng suốt đó đã được minh chứng theo thời gian và đã để lại cho lịch sử cách mạng Hà Nội một vị Thị trưởng tài hoa, mẫu mực.

Xuất hiện trên văn đàn vào đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tuân là một viên ngọc đắt giá của văn học Việt Nam hiện đại, một nhà văn bậc thầy, một nhân cách văn hóa mẫu mực, trở thành một biểu tượng cho sự chân thiện mỹ của văn chương. Ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ mà đỉnh cao là những bài tùy bút với phong cách riêng biệt ghi dấu ấn trong lòng độc giả.

Nhà thơ, Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 01/7/1822 tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay là phường Cầu Kho, Quận 1, TP Hồ Chí Minh). Năm 21 tuổi, ông đỗ Tú tài ở Trường thi Gia Định. Bốn năm sau đó, trong lúc trở ra Kinh đô Huế đợi ứng thí, ông hay tin mẹ mất tại Gia Định, vì quá đau buồn, ông đã khóc thương mẹ đến mù đôi mắt. Dù cuộc đời sớm gặp nhiều gian truân, vất vả, song với ý chí không đầu hàng số phận, Nguyễn Đình Chiểu đã quyết tâm vượt qua nghịch cảnh, tự mày mò trau dồi kiến thức, mở lớp dạy học, tự nghiên cứu nghề y và dùng tâm sức của mình để chữa bệnh cho dân nghèo.

Trạng nguyên Hoàng Nghĩa Phú là con trai trưởng của Tiến sĩ Hoàng Khắc Minh hiệu Thủy Hiên Tiên sinh, là chắt trưởng của cụ Hoàng Trình Thanh - Danh nhân đất nước, một trong mười nhà Nho có đức nghiệp lớn của nước ta dưới triều Lê. Năm 16 tuổi Ngài dự thi Hương đỗ đầu. Năm 17 tuổi Ngài vào kinh dự thi Hội trúng Tam trường. Với tài học của quan Trạng nguyên, dưới đời Lê Tương Dực, Ngài làm quan đến Tham tri chính sự, kiêm Đô ngự sử. Lúc mất, Ngài đã được phong làm Phúc thần.

Lý Thường Kiệt họ Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh năm Kỷ Mùi 1019, quê ở phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ, ông đã có chí hướng, ham đọc sách, say sưa nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Năm 23 tuổi ông được bổ nhiệm làm quan theo hầu vua Lý Thái Tông. Trải qua 3 triều vua: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, ông đã có nhiều công lao trong việc chống Tống bình Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh.

Tạ Quang Bửu, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VI, là một giáo sư, nhà khoa học Việt Nam. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã có những đóng góp to lớn, là người đã đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự cho đất nước ta sau này.

Lê Thánh Tông là miếu hiệu của Lê Tư Thành, con thứ tư, cũng là con út của vua Lê Thái Tông. Ông còn có tên là Hạo, hiệu là Thiên Nam Động chủ, sinh ngày 27/7/1442, tại nhà ông ngoại ở mạn tây nam Quốc Tử Giám, nay là khu đất chùa Huy Văn, Hà Nội. Ông lên ngôi lúc mới 18 tuổi, Lê Thánh Tông làm vua 38 năm và là bậc vua anh hùng, tài lược.

Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan, tên thật là Lê Thị Yến, sinh ngày 7/3 năm Giáp Thân (1044), mất ngày 25/7 năm Đinh Dậu (1117). Bà xuất thân trong một gia đình làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, Bà nổi tiếng là người thông minh, xinh đẹp, nết na, dịu hiền. Cha Bà là ông Lê Công Thiết và mẹ là bà Vũ Thị Tình quê làng Thổ Lỗi sau đổi thành Hương Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội).

Dương Tự Minh, được gọi là Đức Thánh Đuổm hay Cao Sơn Quý Minh, là vị thủ lĩnh tài ba của phủ Phú Lương xưa. Sự nghiệp, công trạng của ông đã được chính sử ghi chép lại. Ông được người dân tôn sùng, ngưỡng vọng vì những cống hiến cho mảnh đất sinh thành và non sông Đại Việt.

Văn Cao là một nghệ sĩ tài hoa bậc nhất Việt Nam, với những đóng góp không chỉ trong lĩnh vực âm nhạc mà còn ở thi ca, hội họa. Riêng với âm nhạc, ông đã lưu những dấu ấn sáng tạo mang tính khai phá, mở lối, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò định hình ở các thể loại tình ca, trường ca và nhạc cách mạng.

Trần Nguyên Hãn thuộc dòng dõi quý tộc nhà Trần. Ông là nhà quân sự đại tài được sử sách lưu danh, người đời mến mộ.

Nguyễn Công Thái (1684-1758) người làng Kim Lũ tên nôm là làng Lủ, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Ông có công đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Không chỉ trải nhiều chức quan, làm Tế tửu Quốc tử giám, ông còn là ngoại giao tài ba giành lại đất rơi vào tay nhà Thanh. Nhà thờ ông hiện nay chính là ngôi nhà cổ do chúa Trịnh Sâm tặng thầy học ở quê nhà.

Nguyễn Công Cơ (1675-1733), tước Cảo quận công và Cơ quận công. Từ nhỏ, Nguyễn Công Cơ là người hiếu học. Năm 12 tuổi, ông đã dự thi Hương khoa Đinh Mão niên hiệu Chính Hòa thứ 8 (1687) thi đỗ Tam trường. Năm 19 tuổi, ông đỗ H­ương cống. Năm 22 tuổi, ông dự khoa thi Hội, trúng Tứ trường. Vào thi Đình, ông đư­ợc ban Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.

Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt, bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay.

Theo sách “Phạm tộc gia phả”, Phạm Văn Toán sinh ngày 30 tháng 2 âm lịch năm Giáp Thìn (tức 1844), trong một danh gia vọng tộc tại làng Láng, Yên Lãng thuộc phủ Hoài Đức xưa, sau thuộc huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc phố Pháo Đài Láng, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông là vị quan triều Nguyễn, tuy chỉ giữ chức quan tỉnh nhưng lại được phong hàm ngang với các quan đầu triều.

Khúc Thị Ngọc còn gọi là Công chúa Quỳnh Hoa, là một nhân vật lịch sử được dân chúng tôn thờ là thánh mẫu. Bà là con gái của Tiên chúa Khúc Thừa Dụ là em gái Trung chúa Khúc Hạo và cũng là trợ thủ đắc lực của cha, anh trong việc xây dựng và giữ vững nền tự chủ. Bà có công trong việc khôi phục nền kinh tế đất nước.

Trung Chủ Khúc Hạo, người đặt nền móng đầu tiên cho một nhà nước tự chủ là con của Khúc Thừa Dụ. Quê hương của cha con Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo nay được cho là làng Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Khúc Thừa Dụ được suy tôn là Khúc tiên chúa, là Tiết độ sứ người bản địa đầu tiên của Tĩnh hải quân, đồng thời là người đặt cơ sở cho nền độc lập, tự chủ của nước Việt Nam sau 1.000 năm chịu ách đô hộ của phong kiến phương Bắc.

Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam. Tên tuổi của ông được biết tới nhiều là một nhà thơ kiệt xuất thông qua tác phẩm "Bình Ngô đại cáo". Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn được biết đến với vai trò là nhà chính trị, nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông mãi mãi là kì quan để đời đời kính trọng.

Từ nhiều đời nay có một vùng làng quê trù phú nằm ven sông Hồng, nổi tiếng là vùng đất địa nhân linh kiệt, đó là làng Vẽ hay còn gọi là "làng Tiến sĩ". Là một trong những làng cổ nhất của Hà Nội thuộc phường Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm. Do vậy cái tên làng Vẽ hay làng Đông Ngạc đã trở thành niềm tự hào bao đời của người dân nơi đây. Chính mảnh đất vinh hoa ấy là nơi sản sinh ra biết bao nhiêu nhân tài đất Việt làm rạng danh non sông đất nước, trong đó không thể không nhắc tới danh nhân văn hoá Phan Phu Tiên, Tiến sỹ khai khoa cho cả làng vào năm 1383.

Vua Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh năm Mậu Ngọ (1258). Sử sách ghi lại rằng khi Ngài mới sinh ra đã có dung mạo của bậc thánh nhân, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, sắc thái như vàng ròng, nên được vua cha đặt cho tên hiệu là Phật Kim. Trong suốt chiều dài lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, Vua Trần Nhân Tông lưu lại dấu ấn vô cùng sâu đậm. Tên tuổi của vị vua thứ 3 nhà Trần được đánh giá là bậc minh quân trị nước, một vị vua anh hùng.

Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Bà lấy chồng làm Tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời thường gọi bà là bà Huyện Thanh Quan. Bà được coi là nữ sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hiện còn lại gần mười bài thơ, hầu hết bằng chữ nôm, được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.

Đất nước Việt Nam trải dài hơn 4000 năm lịch sử, đã sản sinh ra nhiều vị vua hiền tài có công với nước. Đi qua các triều đại với biết bao thăng trầm, mỗi vị vua hiền sáng không chỉ là bậc anh hùng hào kiệt, lãnh đạo nhân dân ta chiến thắng quân xâm lược ngoại bang, mà còn luôn hết lòng vì dân, vì nước, góp phần dựng nền văn hiến muôn đời, tạc vào non sông, đất nước. Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng là một trong những vị vua như vậy. Ông là bậc quân vương mưu trí phi thường, có công lớn đánh đuổi giặc xâm lược nhà Đường thế kỷ thứ 8, đồng thời là một danh nhân tiêu biểu của mảnh đất Thăng Long - Hà Nội được lớp lớp hậu thế ngưỡng vọng, ngợi ca công đức và suy tôn.