Truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi"

Trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya" hôm nay, mời quý thính giả cùng lắng nghe truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" của nhà văn Lê Minh Khuê. Tác giả đã lột tả cuộc sống chân thực đầy gian khó, song rất đỗi mộng mơ của những cô gái thanh niên xung phong.

User
Ý KIẾN

Sau chiến dịch Trung du, Trung ương quyết định mở tiếp một chiến dịch mới nhằm đẩy mạnh hoạt động quân sự trước mùa mưa, không cho quân địch có thời gian củng cố lực lượng càn quét đồng bằng - chiến dịch mang tên người Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám.

Để ngăn chặn tham vọng giành quyền chủ động của tướng Đờ lát trên chiến trường miền Bắc, chiến dịch Trung du đợt hai đã nổ với chủ trương đánh điểm, diệt viện. Diễn biến của chiến dịch này sẽ tiếp tục được chuyển tới thính giả trong phần 9 Hồi ức “Đại tướng Võ Nguyên Giáp đường tới Điện Biên Phủ” (phần 9) do nhà văn Hữu Mai ghi lại.

Sau một thời gian lắng xuống trước khó khăn về kinh tế, chiến tranh Đông Dương một lần nữa lại bùng nổ gây sóng gió trong Chính phủ và dư luận quần chúng. Tình thế này khiến cho Pháp buộc phải cấp tốc tăng cường quân sự và lựa chọn những giải pháp không có lợi cho chúng. Nắm bắt thời cơ địch chưa kịp chuẩn bị phòng ngự, Bác cùng Bộ Chỉ huy của ta đã lên kế hoạch mở các chiến dịch nhắm vào trung du.

Năm 1951, Bác đề nghị đổi tên Đảng là Đảng Lao động Việt Nam. Việc thay đổi này theo Bác phân tích, không còn là vấn đề riêng của Cách mạng Việt Nam mà còn liên quan đến Cách mạng Lào và Campuchia. Tuy nhiên, để tổ chức một Đại hội Đảng giữa thời kỳ chiến tranh ác liệt như thế này không phải là điều dễ dàng. Trong chương trình hôm nay, mời quý thính giả cùng lắng nghe nội dung một trong những cuộc họp quan trọng của Đảng ta vào năm 1951.

Trong phần 6 của cuốn hồi ức "Đại tướng Võ Nguyên Giáp - đường tới Điện Biên Phủ" do Nhà văn Hữu Mai ghi lại qua lời kể của Đại tướng, chúng ta thấy được tinh thần đoàn kết của quân dân Việt Nam, đặc biệt sau niềm vui chiến thắng trong chiến dịch luôn là sự động viên, khích lệ kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với anh em chiến sĩ.

Thất thủ tại Đông Khê, Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương vội vàng thực hiện kế hoạch rút quân khỏi Cao Bằng, điều động binh đoàn Le Page ở Thất Khê hành quân tiến lên chiếm lại Đông Khê. Từ ngày 1 - 5/10/1950 đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt ở khu vực phía nam và phía tây Đông Khê. Binh đoàn Le Page không thực hiện được ý định chiếm Đông Khê mà còn bị ta tiêu diệt một bộ phận.

Với tầm quan trọng của chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân lên Cao Bằng để cùng bộ chỉ huy trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc biệt là sự xuất hiện chỉ đạo, động viên bất ngờ của Bác. Do vậy, trong suốt hơn 52 giờ, quân và dân ta đã chiến đấu ở trận đầu Đông Khê. Dù quân ta có tổn thất nhiều, song quân Pháp bị đánh bất ngờ và tỏ ra hoang mang khiếp sợ.

Trước hàng loạt các kế hoạch mới của thực dân Pháp hòng tấn công dồn dập chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam, ngày 5/8/1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng trưởng phòng quân báo Cao Pha và một số thành viên chủ chốt khác đã có chuyến nghiên cứu thực địa tại Cao Bằng để cân nhắc liệu có thể chọn Cao Bằng là điểm đột phá mở đầu cho chiến dịch. Trong chuyến đi này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự tài ba, sắc sảo.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà chỉ huy và nhà lý luận quân sự xuất sắc, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng trao quyền trực tiếp chỉ huy lực lượng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đánh bại đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Sau những sóng gió đã xảy ra với tất cả thành viên trong gia đình, mọi người đều hiểu được giá trị của hạnh phúc, sự bình yên trong cuộc sống. Nhà văn Ma Văn Kháng đã kết câu chuyện bằng một cái kết mở để ai cũng có thể tìm được câu trả lời của riêng mình.

Sau cái chết của ông Bằng, hàng loạt biến cố đã đến với vợ chồng nhà Đông và Lý. Sự ra đi không hẹn ngày trở lại của Lý khiến không khí trong nhà thêm ảm đạm. Đông sẽ phải đối mặt với các biến cố ấy như thế nào?

Cần trở về nước cũng là lúc ông Bằng trút hơi thở cuối cùng sau khi gặp mặt đông đủ các con. Trong cơn hấp hối, ông thấy yêu và thương các con của mình hơn khi thấy mỗi người con một số phận. Ông dặn dò các con phải biết yêu thương nhau, lấy chính nghĩa làm trọng và phải sống tốt đẹp hơn. Ông cũng để lại số tiền tiết kiệm cho Phượng bởi ông tin cô sẽ sử dụng số tiền đó có ý nghĩa nhất.

Từ một người sống phóng khoáng, ồn ào, Lý bỗng thu mình, ít nói, giản dị, khiến mọi người trong gia đình lại có thiện cảm, vui vẻ, hòa hợp với cô. Vì họ tin cô sẽ phải thay đổi với những gì cô đã trải qua và họ tin vào chính con người Lý. Cuộc sống của gia đình ông Bằng lại náo nhiệt hơn bởi sự trở về của Cần sau nhiều năm du học nước ngoài.

Luận và Lý đã xảy ra xung đột bởi Luận không thể chịu đựng nổi sự trơ trẽn, ngông ngạo của Lý. Chưa bao giờ anh thấy gia đình này trở nên ngột ngạt như vậy. Anh thất vọng vì sự nhu nhược, hèn kém của Đông. Thấy bức bối về sự thay đổi một cách tồi tệ và vô lý của cuộc sống xung quanh mình. Và Luận đã có những biện pháp để hạn chế những thảm cảnh xảy ra trong gia đình mình.

Sau một tháng đi công tác, trở về nhà, Lý trở thành một người khác hẳn. Cuộc sống sa đọa, trụy lạc ở đất Sài thành đã biến Lý trở thành một con người trơ trẽn và mất nhân cách. Việc vợ con Cừ trở về sống trong ngôi nhà của ông Bằng làm cho gia đình đảo lộn làm cho Lý càng thêm tức tối. Cô còn nghi ngờ cả vợ chồng Luận - Phượng rắp tâm đưa người nhà đến ở để chiếm nhà. Bản thân Đông cũng không biết xử lý như thế nào với vợ mình.

Phượng có lẽ là người phụ nữ mang lại cho độc giả nhiều tình cảm. Sự tần tảo, nhẫn nhịn, biết điều, bao dung và cả sự dám đấu tranh, dám nêu y kiến của Phượng cũng mang lại cân bằng ở mỗi tình tiết trong trong tiểu thuyết. Tại cơ quan nơi Phượng làm việc, câu chuyện của chị trưởng phòng và ông giám đốc với những hoàn cảnh éo le của một thời chiến tranh cũng mang lại nhiều điều đáng suy ngẫm.

Có lẽ Cừ cũng là một nhân vật được nhà văn Ma Văn Kháng dành nhiều tâm huyết để xây dựng như một sự đối lập đột phá trong bức tường giá trị văn hóa, giá trị cốt lõi của một gia đình. Trong phần 13 của tiểu thuyết, Cừ đã gửi một bức thư từ xứ người về cho bố. Những cảm nhận của anh từ một chàng trai 13 tuổi, những ấm ức của một cậu bé có phần ngỗ ngược trong sự dạy dỗ khắt khe của bố mẹ. Và những cảm xúc có chút hối hận về giá trị của một gia đình, của dân tộc khi anh phải đối diện với những cô đơn, khó khăn nơi xứ người.

Cừ là người con trai đã đem lại cho ông Bằng nhiều phiền muộn nhất. Cừ đã bỏ ra nước ngoài để bỏ lại cô vợ công nhân dệt và hai cậu con trai. Chính hai đứa trẻ có phần ngỗ ngược ấy cũng phần nào đem lại cho ông Bằng một niềm an ủi nhất định khi nghĩ về cậu con trai của mình. Nhưng cũng chính chúng lại là niềm lo lắng của cả gia đình.

Câu chuyện tình cảm của vợ chồng Luận và Phượng được coi là chuẩn mực trong gia đình của ông Bằng. Sự thấu hiểu, tần tảo, bao dung của Phượng và sự hiểu biết, điềm đạm của Luận đã như hai nhân vật đem tới sự cân bằng trong tuyến nhân vật của tiểu thuyết. Và trong phần 11 của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’ sẽ xuất hiện những tình tiết mới về Lý và người đàn ông lạ.

Trong phần 10 của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’, nhà văn dành phần lớn thời gian để xây dựng nhân vật Phượng - cô con dâu thứ của ông Bằng, một người phụ nữ hiền lành, chân chất, hiếu thảo và giàu tình nghĩa. Cô như là một sợi dây gắn kết các thành viên trong gia đình ông Bằng.

Nhà văn Ma Văn Kháng rất giỏi trong việc khai thác tình huống và xây dựng tính cách nhân vật. Chính vì lẽ đó mà mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm của ông vô cùng linh hoạt và hấp dẫn tới mức người nghe thấy như sống động ngay trước mắt.

Lý - cô con dâu thứ của gia đình ông Bằng được nhà văn Ma Văn Kháng khắc họa đậm nét. Chị là người phụ nữ cá tính, có đời sống nội tâm phong phú, khi dịu dàng đáng yêu, lúc lại đanh đá đến mức tàn nhẫn. Cuộc hôn nhân giữa Lý và Đông – con trai thứ của ông Bằng bắt đầu từ sự ngưỡng mộ của một cô thợ may với chàng sỹ quan quân đội. Sau chiến tranh, trở về cuộc sống đời thường, cuộc hôn nhân của họ rạn nứt với bao mâu thuẫn nảy sinh.

Trong phần 7 của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’, nhà văn Ma Văn Kháng dành nhiều thời gian cho nhân vật Hoài, cô con dâu cả của gia đình của ông Bằng. Mặc dù chồng mất sớm, bản thân đã đi bước nữa nhưng người phụ nữ ấy vẫn là thành viên quan trọng trong gia đình ông Bằng, là sợi dây kết nối các mối quan hệ trong gia đình nhỏ bé.

Trong phần 6 của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’ miêu tả không khí chiều 30 Tết của gia đình ông Bằng. Bên mâm cơm đoàn tụ lẩn khuất sau những nụ cười, câu chúc vui vẻ là những nỗi niềm day dứt trong lòng mỗi người.

Trong phần 5 của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’, chúng ta sẽ được biết rõ hơn về Lý – vợ của Đông, người con dâu thứ trong gia đình. Trái ngược tính cách hiền lành có phần bạc nhược của Đông, Lý nhanh nhẹn, đảm đang, nhưng lại có phần quá thực dụng. Hai tính cách trái ngược, cộng thêm cách sống, cách suy nghĩ nông cạn của Lý là mầm mống cho sự tan vỡ của cặp vợ chồng này.

Trong phần tư của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’ tác giả tập trung miêu tả tính cách của ông Bằng, người cha trong gia đình cũng là tiêu biểu cho phong cách sống gia giáo, truyền thống, có phần thủ cựu. Bên cạnh đó, có phần đối lập với ông là quan điểm khá gay gắt, cứng nhắc của người con trai thứ ba là Luận - một nhà báo. Liệu giữa hai cha con họ có tìm được tiếng nói chung?

Trong phần tiếp theo của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’, dường như đã xuất hiện những dấu hiệu của sự lủng củng, bất hòa, thể hiện trong cuộc tranh luận giữa người con thứ hai - một trung tá về hưu với người con thứ ba - một nhà báo, về việc một người con thứ tư đã bỏ việc nhà máy để vượt biên.

Trong phần tiếp theo của tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’, chúng ta sẽ được gặp gỡ những con người có quan điểm, phong cách sống rất khác nhau. Một xã hội thu nhỏ được nhà văn Ma Văn Kháng miêu tả tài tình thông qua từng nhân vật trong một gia đình.

Tiểu thuyết ‘Mùa lá rụng trong vườn’ của nhà văn Ma Văn Kháng đã giành giải B Giải thưởng Hội nhà văn năm 1986. Có thể coi "Mùa lá rụng trong vườn" là tác phẩm văn học đầu tiên thời kỳ hậu chiến, không lý tưởng hóa cuộc sống, dám miêu tả mặt trái của xã hội lúc đó.

‘Thằng Phóong, em tôi’ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nguyễn Văn Thọ về đề tài chiến tranh và hậu chiến. Người chết đã chết. Nỗi đau khắc mãi mãi trong tim người sống.

Truyện ngắn ‘Đèn không tắt sáng’ cùa nhà văn Ma Văn Kháng là một câu chuyện xúc động, giàu ý nghĩa nhân văn kể về chuyến lên thăm vợ chồng anh con út lần cuối của bà cụ Vy. Tuy chỉ là những câu chuyện tưởng như rất vụn vặt trong cuộc sống, những ứng xử bình thường của những người ruột thịt trong gia đình, nhưng dưới ngòi bút của nhà văn lại trở nên đẹp đẽ, thiêng liêng và lay động lòng người. Bởi những ứng xử rất đỗi bình thường ấy đã xâu kết, duy trì và tiếp nối nền tảng đạo đức truyền thống gia đình Việt Nam.

Chiến tranh đã đi xa, nhưng dư âm của nó dường như vẫn còn đọng lại trong tâm khảm của những người lính năm xưa. Bởi nỗi mất mát vô cùng lớn lao của chiến tranh gây ra vẫn là vết thương không thể lành. Qua truyện ngắn ‘Cha và con’, chúng ta sẽ được cùng sống và sẻ chia với những cuộc đời, những số phận của mỗi con người trong chiến tranh để thêm yêu, thêm trân trọng cuốc sống của ngày hôm nay.

Những tác phẩm của Nguyễn Thị Kim Hòa khiến người đọc như được gặp, được khóc, được cười với những con người hồn hậu, chất phác, bình dị nơi vùng quê miền Trung nắng cháy. Nơi có những cánh đồng bát ngát, những giàn nho trĩu quả kéo dài tít tắp, những đàn cừu nhởn nha trên thảm cỏ lúc hoàng hôn. Để khi gấp trang sách lại, trong lòng độc giả lại trào lên dạt dào một tình yêu đời, yêu người và yêu quê hương tha thiết.

Truyện ngắn ‘Cuộc gặp gỡ định mệnh giữa rừng xanh’ không đi vào cảnh bom đạn, chiến đấu trong chiến tranh mà khai thác số phận, tâm tư tình cảm của người lính khi gặp tình huống bất ngờ. Câu chuyện giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều hơn về người lính phía bên kia chiến tuyến.

Tác phẩm của nhà văn trẻ Tống Phước Bảo đem lại một nguồn gió tươi mới trên văn đàn. Anh đã đưa thành phố yêu thương, gắn bó của mình đến gần hơn với độc giả muôn phương bằng chính chữ ‘thương’ rộng lớn trong tâm hồn mình.

Truyện ngắn ‘Nước lớn triền đê’ mở ra bằng một bi kịch và kết thúc bằng một bi kịch, để lại nhiều cay đắng, day dứt và cả bẽ bàng. Thông qua các chi tiết phân tích tâm lý nhân vật rất tinh tế, tác giả cảm thông hơn cho người phụ nữ. Họ vẫn là người sẽ phải chịu những tổn thương và nhận thiệt thòi nhiều hơn cả.

Truyện ngắn ‘Giọt máu’ với những tình tiết hấp dẫn, câu chuyện kể về số phận của những con người được xây dựng rõ nét và mang nhiều thông điệp. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gửi gắm vào truyện những điều mà tác giả cũng đang trăn trở về văn chương, tiền bạc, sự tham lam và nhân cách của con người về sự học và ý nghĩa của nó.

Truyện ngắn "Giọt máu" của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể về dòng họ Phạm ở Kẻ Noi thuộc huyện Từ Liêm. Ông tổ với nghề làm ruộng và buôn bán, trước khi mất đã gieo vào người con trai cả làm nghề mổ lợn ước mơ có con cháu thành danh về đường học vấn. Và rồi như ước nguyện, cháu đích tôn đời thứ ba là Phạm Ngọc Chiểu đỗ đạt trong một kỳ thi và được bổ nhiệm làm Tri huyện. Cũng kể từ ấy, dòng họ Phạm đã trải qua biết bao thăng trầm, thịnh - suy đều có.

Nguyễn Khải là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Các tác phẩm của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới; về bộ đội trong những năm kháng chiến chống Mỹ; về những vấn đề xã hội - chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng và tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Trong chương trình hôm nay, mời quý thính giả cùng đến với một trong những truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Khải - truyện ngắn "Đất mỏ".

Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường phơi bày hiện thực xã hội và con người. Nhân vật trong truyện ngắn của ông rất đa dạng: con người cô đơn, con người ảo tưởng, con người tha hóa nhân cách và mất dần giá trị đạo đức. ‘Huyền thoại phố phường’ cũng là một truyện ngắn độc đáo của ông kể chuyện về Hạnh, một thanh niên nghèo sống giữa Thủ đô xa hoa và đầy cám dỗ. Hạnh khao khát sự giàu có và luôn bị đồng tiền ám ảnh.

Với bảy tập truyện ngắn trải dài trong 39 năm (từ 1959 – 1998) đủ để khẳng định tên tuổi của nhà văn Vũ Thị Thường trên văn đàn. Bà là một trong số ít nhà văn chuyên chú và thành danh với thể loại truyện ngắn. Những tác phẩm dung dị, mộc mạc không tìm sự cầu kỳ, hoa mỹ trong cách tạo tình huống hay lối viết mà chính vẻ đẹp của sự giản dị trong mỗi tác phẩm của bà đã chinh phục được người nghe.

Cái hay của truyện ngắn ‘Lẽ mọn’ là ở khả năng xây dựng và phân tích tâm lý nhân vật tài tình, khiến cho chuyện xảy ra cách đây hơn 6 thập kỷ mà vẫn hấp dẫn được người nghe. Trong phần cuối của truyện ngắn này, liệu lựa chọn cuối cùng của Tha có can đảm rời bỏ cuộc sống hiện tại tù túng, bế tắc để đến với cuộc sống mới hay không?

Nhà văn Cẩm Thạch sớm khẳng định tên tuổi của mình qua những tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết. Bà là một trong những nữ nhà văn có đóng góp lớn trong việc phản ánh và gắng giải quyết những vấn đề của phụ nữ, nhất là ở khía cạnh giải phóng họ. Những trang viết dung dị, giàu cảm xúc, khai thác những góc khuất trong tâm hồn con người khiến tác phẩm của bà được người đọc đồng cảm.

Truyện ngắn ‘Con mèo của Fourita’ của nhà văn Nguyễn Quang Sáng thông qua một cuộc mua tranh miêu tả về hai người bạn, hai số phận khác nhau, gặp lại nhau sau ngày thống nhất đất nước. Hai con người, hai hoàn cảnh ấy cũng là đại diện cho rất nhiều những số phận tương tự sau ngày đất nước thống nhất.

Câu chuyện miêu tả tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, nỗi khát khao của những người phụ nữ. Những gương mặt, những số phận người phụ nữ ấy chính là muôn màu của cuộc sống đời thường.

Truyện ngắn ‘Gió heo may’ của Nguyễn Quang Thân mô tả cuộc sống buồn tẻ, hiu quạnh, lam lũ của một xóm đạo nghèo. Nhưng mỗi người dân trong xóm nhỏ ấy luôn thấy bình an bên nhau.