Về lại phố Hàng...
Bây giờ bố tôi tám mươi, đời sống dễ chịu hơn trước nhiều, nhưng thỉnh thoảng lại không được vui, lại nghĩ cái điều "giá như" cho những năm cuối đời ông bà ở Hàng Mành.
"Và rực rỡ rêu phong Hà Nội
Hoa bỗng bừng lên mở khóa những đường về
Chuông nhà thờ văng vẳng cơn mê
Bố gầy yếu đứng nhìn phố cũ"
Bố tôi không biết được gốc gác, chỉ nhớ cụ nội từ đâu đó Hưng Yên lên sinh sống ở phố cổ. Ông nội lớn lên ở đấy, ông bà nội sinh các bác, bố tôi và các chú cô. Nghề thêu của nhà nối từ cụ qua ông, đến lúc bố tôi trưởng thành, khi Hà Nội được giải phóng năm 1954 một thời gian thì dừng lại và ở lại mãi cùng xưa cũ.
Tuổi thơ tôi đi qua làng quê, nhìn những chị những em cắm cúi bên khung vải, thoăn thoắt kim chỉ làm nở hoa cúc vàng, làm tung sóng biếc và rồng phượng ẩn hiện trong mây tía, tưởng đã quen từ xa vắng mơ hồ.
Đời cụ nội chủ yếu làm thuê. Đến đời ông đã dư dả vốn liếng mở cửa hiệu, đặt tên Tiến Bảo. Năm 1933, khi bố tôi được sinh ra thì đã có cửa hàng. Chắc hồi đó gia đình dư dả nhất nên tên đệm của bố tôi là Tiến, còn các anh chị em của bố thì đều đệm là Văn hoặc Thị, với tên một cô em liền sau bố tôi là Bảo, nhưng đã sớm qua đời từ bé.
Ngày xưa, phố cổ, nghề cũ như thế nào, giờ lần lại trong trí nhớ tám chục năm tóc bạc của bố thật là khó. Cả các bác đã ngoài 90, 80 và các cô đã ở vào hàng thất thập, nghĩ lại cũng chỉ chung chung, áng áng. Đã quá nhiều lo toan, quá nhiều thay đổi trong những tháng năm sau này, khi lớp bình dân Hà Nội cũ phải gồng gánh cho những thế hệ mới theo nhau lớn lên, trong một thời kỳ dài những vẻ đẹp cũ ít được nâng giữ và nhen nhóm.
Hiệu thêu Tiến Bảo ở 36 phố Hàng Nón, dạo đó làm ăn rất thịnh, thuê cả toà nhà, vừa ở vừa làm hàng, bán hàng. Nhà kiểu cũ, ba cửa nhìn ra mặt đường, có mái và ban công liền thẳng với tường, như cái lan can. Ông định mua lại nhưng nhà chủ cũng nhiều tiền, không muốn bán, họ thấy ăn nên làm ra và quý mến nên cho thuê như là để giữ hộ.
Nhiều người khác trong và ngoài họ cũng quý trọng ông. Dạo hồi cư, cả nhà trở lại Hà Nội đang tạm chiếm, từ khi bộ đội về tiếp quản Hà Nội, nếu không phải là ở nhà riêng tại Hoàng Mai, Quan Thánh, Tiên Sinh (tức là phố Nhà Hoả bây giờ), thì cả gia đình gồm ông bà với một lô con cái, vẫn được ở nhờ nhà cao cửa rộng đàng hoàng. Lúc mới về, khi hàng họ buôn bán còn khan hiếm, gia đình còn được giúp củi, gạo, mắm muối.
Cả chặng thời gian ấy, chuyển từ phố Hàng Đàn (gần đầu Hàng Hòm bây giờ) sang đến Huyền Trân công chúa (nay là phố Bùi Thị Xuân), rồi về Hàng Trống, sau chốt lại Hàng Mành. Tên hiệu Tiến Bảo theo đến tận sau 1954, khi đã về định cư ở đây, đến lúc bố không mở cửa hàng nữa, đi lao động tập thể làm công viên Bảy Mẫu, hoạt động trong thành đoàn, rồi đi vào công nhân, đi học nghề và dần xa phố cổ.
Về sau bố tôi ở cũng chẳng xa xôi lắm nơi sinh ra, trong Hà Đông, có 11 cây tính từ cầu Trắng sông Nhuệ đến bưu điện Hồ Gươm. Nhưng có lẽ, đã là cách trở mãi mãi. Tôi không biết nếu bố còn giữ nghề, còn mở hàng thì chuyện sau sẽ thế nào.
Đời sống có lẽ không nên dành nghĩ nhiều về những giả định. Chỉ nhớ hồi bé, ngày nào tôi cũng lấy phấn cặm cụi vẽ đầy nhà. Bố hay vẽ cho tôi con rồng và nói đó là mẫu bố thêu ngày xưa. Con rồng phấn trắng trên nền gạch nhà cấp bốn mái ngói cũ, trần cót ép nhiều mưa dột, có quả cầu lửa phun ra từ miệng và gợn lửa, gợn mây điểm dưới những bàn chân xòe móng. Con rồng bay mãi trong thương nhớ của bố tôi suốt đến bây giờ, suốt chặng thời gian Hà Đông, dài hơn nửa đời của bố.
Rồi một dạo học sinh cấp 1 chúng tôi, gần cuối những năm 80, nhà trường yêu cầu đứa nào cũng phải làm phù hiệu, bố lấy vải gấp, khâu thành hình chữ nhật nhỏ, lấy mấy cuộn chỉ màu thêu tên cho anh em tôi. Lớp 6, khi chúng tôi học môn kỹ thuật, ra chợ mua lủng củng những là khung tròn nhỏ, mùi soa trắng với chỉ màu, về tập tành, đâm chọc loạn xạ. Bố còn thêu mẫu cho một khóm hoa lá xinh xinh. Nhưng khi chúng tôi thêu thử thì đã… thậm xấu.
Cả cụ nội và ông nội đều là những người thợ lành nghề. Lại có bà nội tháo vát. Hồi đó ngoài các đồ thêu phổ biến, bà còn nhận thêu phù hiệu, thêu lon đính trên áo cho binh sĩ Pháp. Bà cứ ra ra vào vào trại lính nhận hàng, trả hàng, có những người họ trêu là bà trưởng ở với tây, đẻ ra con lai. Của đáng tội, tóc bà cũng quăn quăn trước trán, và các con bà, mấy người da trắng, mũi cao, dáng thanh.
Lứa chúng tôi, lớn lên ở tận tít cuối thế kỷ cũ, đầu thế kỷ mới, chẳng thể hình dung nổi cụ mình, ông mình từ năm sáu mươi năm trước tay nghề đến đâu và làm lụng thế nào. Chỉ nghe mọi người nói, có một kỳ hội chợ nào đấy ở Đấu Xảo, cụ ngồi thêu thi được giải cao gì đó, nhà tổ chức gắn mề đay cho cụ. Hoặc nhiều năm sau, khi ông nội không còn nữa, người quanh phố Hàng Mành vẫn trân trọng nhắc tên ông - cụ Tiến Bảo.
Bố được ông dạy, vẫn nhớ hồi thanh niên thêu bức chùa Một Cột bằng chỉ đen và trắng, lồng kính treo trong nhà. Ai vào cũng tưởng ảnh đen trắng. Giờ những đồ vật, những kỷ niệm như thế, chẳng còn gì. Nhà tôi qua mấy đời người, đã có bao nhiêu thứ, bao nhiêu điều không giữ lại được.
Bố còn nhớ hồi đi học, ở nhà cứ ngồi vào khung thêu thì bác Hải trên bố bốn tuổi lại không cho làm. Đứng lên đi, mày mà làm là cậu bắt giống tao, bắt ngồi nhà làm đấy! Bác Hải nói thế. Bác lại cho bố tiền đi xem xi nê. Hồi đó đã có rạp, có phim cao bồi của Mỹ.
Năm 1946, cả nhà đi tản cư, bác Hải ở lại gia nhập Trung đoàn Thủ đô. Về sau bác hành quân lên Tây Bắc, chiến đấu và hy sinh ở đó. Bác chưa lập gia đình. Không để lại dù một bức ảnh, một lời nhắn, chỉ có giấy báo tử của đơn vị gửi về. Bây giờ, tên bác khắc trên bia đền liệt sĩ phường Hàng Quạt, quận Hoàn Kiếm. Cứ mỗi tháng 6, bố tôi lại nhắc các em, các con chuẩn bị hương hoa để ngày 27/7 mọi người đến thắp hương cho bác.
Bố hay ngậm ngùi nhắc lại chuyện một dạo tiền tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ của bác Hải được cấp cho ông bà theo quý. Sau ông lên xin cho cấp theo tháng. Bố thương ông sau những năm hiệu thêu phát đạt, vật chất đủ đầy, gia cảnh sung túc, là cả thời gian dài thiếu thốn quá, phải bán hay đổi dần đồ trong nhà đi, từ tượng đồng đen, cái sập, đến đôn sứ con voi, những chiếc bình, chiếc thống lớn để trồng quất, đào, và cả cái hộp thuốc lá cứ mở nắp là nhô ra một con chó miệng ngậm điếu thuốc…
Bố tôi cứ chép miệng, một dạo bà bác ở nước ngoài có gửi về nhiều quần áo, nhưng có mấy bộ kiểu tây đầm, cả nhà không dám cho bà nội mặc, giờ nghĩ lại thương, giá cứ để bà mặc cho ấm. Hồi bà tháo hoa tai cho bố mua xe Vĩnh cửu phân phối, bố tính sau cố gắng dành lương để mua lại cho bà. Nhưng rồi bao nhiêu cũng lo cái ăn hết. Bây giờ bố tôi tám mươi, đời sống dễ chịu hơn trước nhiều, nhưng thỉnh thoảng lại không được vui, lại nghĩ cái điều "giá như" cho những năm cuối đời ông bà ở Hàng Mành.
Mỗi lần nhìn ở đâu một hình thêu, lòng tôi lại nao nao nghĩ ngợi. Một tối tấp nập, tôi dắt con gái từ Hàng Mã vòng về Hàng Nón, Hàng Mành, qua đình Tú đình Thị khuất lấp trong ngõ Yên Thái, thờ tổ nghề thêu mà ngày xưa mỗi kỳ giêng hai lễ lạt, ông nội lại áo the khăn xếp cùng các cụ trong phường nghề ra hương khói.
Nhớ một lần tôi hỏi ngày bé bố trông thế nào? Con cứ hình dung một đứa bé tóc để trái đào, quần áo dài, đeo vòng, sáng mùng một Tết cứ phải ở trong nhà, cấm chưa được ra ngoài. Và tôi kể với con gái bé, từ tưởng tượng mơ hồ, ngày xưa bằng tuổi con, ông nội nhà mình đã ở trên những phố này. Tôi mường tượng đâu đây bóng hình con trẻ, thập thò sau cửa hàng một sớm đầu năm. Tiếng cười như lanh lảnh gọi./.
Từ khóa:
Ý KIẾN
Sự quyến rũ của Hồ Gươm trong từng khoảnh khắc đã trở thành cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ. Trong số đó có nhà báo Hà Hồng, nguyên Trưởng ban Khoa Giáo của Báo Nhân dân, đồng thời là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nhiếp ảnh Báo Nhân dân, một người con Hà Tĩnh nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội.
Hoa ngâu - loài hoa đặc biệt bởi chẳng có cánh mà hoa cứ tròn như hạt, như nụ. Bởi vậy mà các cụ cao niên thường gọi là nụ ngâu, chứ không gọi là hoa ngâu. Những bông hoa nhỏ xíu và chúm chím như nụ cười duyên của nàng thôn nữ.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, làng Gạ (phường Phú Thượng, quận Tây Hồ) đã được phù sa của sông Hồng bồi đắp, bởi vậy, lúa nếp làng Gạ rất thơm, nấu xôi đặc biệt ngon. Nhắc đến xôi Phú Thượng là nhắc đến một chất xôi ngon, dẻo, hòa quyện với đỗ lạc và đến nay, làng nghề này vẫn giữ được nghề làm xôi truyền thống.
Nhiều vị khách phương xa mới đến Hà Nội đôi ba lần có lẽ sẽ khó để nhận ra giữa không gian ồn ào, tấp nập của Hà Nội hiện đại ngày nay vẫn còn tồn tại những thú vui tao nhã của người Hà Thành. Một trong số đó là nghệ thuật tỉa hoa đu đủ chẻ cánh truyền thống của người Hà Nội.
Nếu như người Sài Gòn có thú vui bình dân là uống cafe bệt, thì người Hà Nội có trà đá vỉa hè. Không cầu kỳ trong cách pha chế, không kén chọn khách uống, trà đá vỉa hè thân thiện, bình dị mà giản đơn.
Dưới bàn tay của những nghệ nhân "Vua dép lốp", đôi dép cao su Bác Hồ ngày nay đã có sức sống riêng, mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt trong mắt bạn bè quốc tế. Thương hiệu "Vua dép lốp" được biết đến bởi nghệ nhân Phạm Quang Xuân, người đã gắn bó với công việc tái tạo đôi dép Bác Hồ hơn 60 năm qua.
Trong tiết trời thu Hà Nội, một bát xôi chè là món quà tuyệt vời mà phố cổ Hà Nộidành tặng cho những tâm hồn lữ khách. Xôi chè không chỉ là món ăn, mà còn là một phần ký ức, là sợi dây kết nối giữa thực tại và quá khứ.
Giữa cuộc sống hiện đại, nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, người học trò xuất sắc của cố nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, miệt mài gìn giữ nghệ thuật hát xẩm và đưa xẩm Hà Thành tới gần hơn với người Hà Nội.
Tháng Mười về, mùa đông rồi cũng sẽ về, sự thay đổi tưởng như chỉ là quy luật ấy lại cho ta những khoảnh khắc xao lòng và lưu luyến với thu, khi mà đâu đó hương hoa sữa dịu dàng miên man trong gió, khi mà ngoài kia những con phố nhỏ thoáng bóng dáng ai đang nâng niu hít hà hương cốm hoặc trầm tư bên ly cà phê trong sương mai.
Lần đầu bước chân lên Hà Nội, có người đã tự hỏi: Không biết thành phố này có gì để người ta bám trụ nhiều đến thế? Xô bồ, khói bụi, ồn ào, đắt đỏ… dường như thành phố quá chật để ta có thể nới rộng tâm hồn. Rồi một ngày nào đó, nỗi lo vật chất sẽ cuốn đi mọi rung cảm tinh thần. Thủ đô liệu có phải chỉ dành cho những ai nhiều tiền, lắm của?
Sáng sớm nay có cơn gió đổi chiều thật đẹp. Là gió heo may. Gió heo may đã về loang trong tim ai đó từng vệt nhớ, nhớ niềm vui tươi mới của tuổi thơ trong ngày khai trường xa xưa.
Sớm nay bỗng có người thấy tâm hồn sao khác lạ, cứ lâng lâng một cảm giác yên lành. Ngập ngừng cảm nhận bước chân xa của mùa gần tới. Thấp thoáng trên phố, chị hàng cốm đi qua để lại tiếng rao nghe rất đỗi quen thuộc. Không biết có thu thì mới có cốm hay chính hương cốm gọi thu về cho Hà Nội.
Không biết tự bao giờ, khi nhắc tới mùa thu Hà Nội người ta nghĩ ngay tới một loài hoa với một mùi hương thật nồng nàn và rất đặc trưng - hoa sữa. Hoa sữa dường như đã trở thành một nét đẹp rất riêng của Hà Nội mà hiếm nơi nào có được.
Tháng 10 về rồi, hoa sữa đã thức dậy sau một năm dài chờ đợi, thu Hà Nội thực sự là đây. Những con phố đêm về lắng đọng trong sương và mùi thơm đã mãi là một phần của thành phố cổ kính.
Nếu Hà Nội của ban ngày là một thành phố năng động với sự hối hả, vội vã và xô bồ thì khi màn đêm buông xuống, các con phố lại gần như được trở về với những gì vốn có, tĩnh lặng, trầm mặc và cổ kính.
Lang thang phố bây giờ khó thư thả lắm. Đường mở ra, nhưng người đông, xe nhiều quá. Thèm được thấy học trò các lứa tuổi cắp sách đi bộ trên hè tới trường, đi bộ giẫm lên những hạt cây cơm nguội lách tách...
Hoa sữa, với thời thiếu nữ của tôi và bạn bè cùng trang lứa, nó chỉ là hình ảnh tưởng tượng ở trong nhạc và thơ. Đó là loài hoa giăng giăng cả miền tưởng tượng.
Có một cô gái dẫu chưa một lần đặt chân đến nhưng luôn đem lòng yêu mùa thu Hà Nội. Nghe có phần vô lý nhưng cảm xúc là một điều gì đó lạ lắm, không thể nào giải thích bằng lý trí.
Hà Nội đã vào thu với bao lời ước hẹn. Từng sắc màu, từng hương vị trên mỗi góc phố, mỗi con đường khi Hà Nội vào thu lại khiến cho lòng người nao nao, ngơ ngẩn nhớ về những kỷ niệm yêu thương ngày xưa cũ.
Khu tập thể số 5 Đinh Lễ từ lâu đã là điểm đến thân thuộc của bao người yêu sách. Nằm trên tầng 2 của một khu tập thể ẩn sâu trong ngõ số 5 phố Đinh Lễ, ít ai biết nhà sách Mão lại là nơi khởi phát đầu tiên để hình thành phố sách Đinh Lễ như ngày nay.
Có một người trở lại Hà Nội vào một chiều mùa hạ. Người ngồi ngắm phố mà lòng lại nhớ về những năm tháng cũ.
Liệu có phải sự trưởng thành của mỗi người dân nơi đất Việt đều gắn bó với ít nhất một dòng sông? Trong trái tim của một người, luôn có một dòng sông chở nặng phù sa, chở theo cả bao ký ức đầy thương nhớ.
Tôi được sinh ra trong một chiều mùa đông Hà Nội, thuộc thế hệ con cái cán bộ người miền Nam tập kết năm 1954. Theo ba má về quê hương nội ngoại ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1975, tôi vẫn luôn dành một góc trái tim mình cho ký ức tuổi thơ Hà Nội.
Nhắc đến Hà Nội, người ta thường nhớ về phố cổ với những mái ngói xô nghiêng, mang đậm dấu tích thời gian. Phố cổ được xem là cái nôi lưu giữ những gì cổ kính, hoài niệm một thời vẫn còn vẹn nguyên những nét trầm mặc theo dòng xoáy thời gian và chính điều này đã trở thành lý do thôi thúc nhiều lữ khách đến thăm nơi đây.
Hà Nội không phải nơi tôi sinh ra, không phải nơi tôi lớn lên, cũng không phải nơi tôi lập thân, gắn bó cuộc đời. Nhưng nếu ai đó hỏi tôi rằng, có yêu Hà Nội không, tôi sẽ không ngần ngại mà gật đầu.
Những khu tập thể cũ Trung Tự, A6 Giảng Võ, Kim Liên, Nguyễn Công Trứ, Nam Đồng... được xây dựng từ những năm 50-60 của thế kỷ trước là một phần thân thương của Hà Nội, là nơi lưu giữ ký ức của nhiều thế hệ người dân Hà thành.
Phố cổ Hà Nội, nơi mà từng chút rêu phong lặng lẽ nằm lại ở những ngách nhỏ nắng không rọi tới, nơi hàng ngày vẫn chật ních những người xe qua lại mà không lưu lại chút nào dấu chân của khách bộ hành...
Cái lạnh, cái rét, cái nóng và mưa lũ đó có lẽ tôi chẳng bao giờ quên được. Nó khó quên, vì nó cứa vào da thịt mình, nó táp vào mặt mình, tê tái. Nó cũng chính là những mốc thời gian trong cuộc đời để người ta nhớ về. Nhớ về một thời gác trọ ở Thủ đô.
Hạ về, cũng là lúc những búp sen rũ bùn đứng dậy khoe sắc thắm, tỏa hương thanh khiết. Trên khắp đất nước mình ở đâu cũng có sen. Nhưng là người Hà Nội, tôi luôn yêu và tự hào về sen Hồ Tây.
Cafe Thái, quán cafe ngót trăm tuổi của Hà Nội, nơi cafe được rang thủ công bằng củi, nơi từng cốc cafe thấm đượm mùi khói...
Đó là con phố được coi là đẹp nhất Thủ đô. Phố đẹp, cổ xưa mà lãng mạn. Phố đẹp, hiện đại mà hào hoa. Phố đẹp, ồn ã mà lắng đọng. Phố đẹp, hối hả mà trầm tư.
Ngày nay, phố Tạ Hiện được mệnh danh là “con phố không ngủ của Hà Nội”. Phố đã gắn liền với cuộc sống của người Hà Nội và níu chân du khách mỗi khi họ có dịp ghé qua khu phố cổ.
Ngồi ở ban công hướng mắt ra xung quanh, ngắm nhìn nhịp sống đều đặn từng ngày, lòng tôi vẫn nao nao nhớ một góc nhỏ yên bình.
Sáng hè thành phố, người đầy mồ hôi và bẹp dí xuống giường. Có người cố ngủ nướng cũng chẳng xong. Cái nóng hầm hập xuyên qua lớp tường dày, len lỏi vào từng tế bào trên cơ thể.
Nằm trong căn nhà nhỏ trên phố Lãn Ông, hiệu thuốc y học cổ truyền Nghi Hưng Long được ra đời từ năm 1900, đến nay đã trải qua nhiều thế hệ cha truyền con nối.
Đi giữa phố phường Hà Nội trong một chiều lá bay dày, nỗi nhớ ngày xưa chênh chao ùa về...
Với tôi, đó thực sự là những vườn hoa di động trên phố, là một nét rất Hà Nội của người Hà Nội. Và đôi lúc tôi tự hỏi nếu thành phố này vắng đi những vườn hoa đó thì không biết sẽ như thế nào?
Trong ký ức của một người xa Thủ đô, Hà Nội là những hàng cây xanh mát hai bên đường, những sạp báo, những bác xích lô ngồi đợi khách. Và nỗi nhớ Hà Nội đọng lại trong một ly trà ấm nóng, phảng phất khói bay trong một chiều hoàng hôn.
Đối với những người xa Hà Nội, hương hoa sữa của mùa thu là mùi hương của tình yêu, là ký ức yêu dấu mà họ sẽ mang theo suốt cuộc đời. Người đi xa nhớ da diết mùa thu Hà Nội, bởi mùa thu gọi họ sống chậm lại để yêu thương.
Có những bức ảnh lưu lại một khoảnh khắc khiến bạn bỗng thấy phố thật gần, thật thân thiết.
Cả ngàn năm người dân nước Việt lắng nghe tiếng gà trong đêm để biết nhịp thời gian, chia tiếng gà trong đêm thành những canh gà, để rồi dựa vào đó giữ thói quen thức sớm dậy khuya, bán buôn, đồng áng. Và ngay cả những mối tình thấm đẫm nước mắt, đẫm màu lãng mạn, cũng lấy canh gà làm thời khắc hò hẹn cùng nhau.
Gần 20 tên phố Hàng của Thăng Long - Hà Nội những trăm năm xưa đã biến mất trong biến thiên thời cuộc.
Đâu đó có những góc nhỏ mơ hồ thời gian, lâu lâu lại rộn lên câu chuyện cũ. Có thể là xa xôi với những người vội bước qua không kịp để ý. Nhưng vẫn là đau đáu trong những ai còn nặng lòng trước nhịp đổi thay phố phường.
Người Việt dù đi đâu cũng chỉ muốn trở về quê hương, nhất là khi đã có tuổi. Đến lúc nằm xuống vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê, mong được trở về lòng đất quê, bởi dường như trên quê hương, ta mới là ta...
Bây giờ bố tôi tám mươi, đời sống dễ chịu hơn trước nhiều, nhưng thỉnh thoảng lại không được vui, lại nghĩ cái điều "giá như" cho những năm cuối đời ông bà ở Hàng Mành.
Hà Nội có nhiều quán ăn mang đặc trưng ẩm thực của nhiều vùng miền. Chỉ cần bạn dạo qua những con phố có thể dễ dàng tìm thấy những món ăn nổi tiếng của mỗi địa phương.
0