Xôi Phú Thượng: Vạn hạt gạo, ngàn hương vị
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, làng Gạ (phường Phú Thượng, quận Tây Hồ) đã được phù sa của sông Hồng bồi đắp, bởi vậy, lúa nếp làng Gạ rất thơm, nấu xôi đặc biệt ngon. Nhắc đến xôi Phú Thượng là nhắc đến một chất xôi ngon, dẻo, hòa quyện với đỗ lạc và đến nay, làng nghề này vẫn giữ được nghề làm xôi truyền thống.
"Làng Gạ có gốc cây đề, có sông tắm mát, có nghề thổi xôi". Làng Gạ hay còn được biết đến với cái tên làng Phú Gia, nằm bên bờ Nam sông Hồng, nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Mỗi sớm mai Hà Nội thức giấc, hương thơm nồng nàn của xôi Phú Thượng lại len lỏi khắp các con phố. Hạt nếp cái hoa vàng dẻo thơm, quyện với đậu xanh bùi ngậy, cùng chút hành phi vàng rộm, tất cả tạo nên một bản giao hưởng hương vị khó quên.
Xôi Phú Thượng không chỉ là món ăn đơn thuần, mà còn là cả một câu chuyện về làng nghề truyền thống. Những người thợ làm xôi ở Phú Thượng đã gìn giữ và phát triển nghề này qua bao thế hệ. Họ chọn gạo, ngâm gạo, đồ xôi, vo xôi... đều theo những quy trình rất riêng, mang đậm dấu ấn của làng nghề. Tại làng Phú Thượng có nhà bà Nguyễn Thị Thảo - một nghệ nhân nổi tiếng trong làng. Đôi tay bà vừa thoăn thoắt vo gạo, vừa nói chuyện về món ăn nổi tiếng của làng.
"Hiện tại tôi đang làm 5- 6 loại xôi, trong đó có xôi lạc, xôi gấc, xôi xéo, xôi cẩm tím, xôi lá nếp, xôi đỗ đen, xôi dừa. Trong 5 loại thì đặc trưng nhất là xôi lá nếp. Xôi lá nếp làm hơi khó vì phải phải làm sao để tìm được lá nếp đều lá, lá xanh thì mình sẽ được gạo xanh và rất thơm." bà Thảo chia sẻ.

Ngâm gạo là bước đầu tiên và vô cùng quan trọng để có một nồi xôi Phú Thượng thật ngon. Tốn nhiều công sức nhất là đãi gạo. Trước tiên, gạo được vo sạch, sau đó ngâm chừng 3 tiếng thì mang ra đãi, rồi tiếp tục ngâm 3 tiếng, đãi tiếp lần nữa, rồi lại được ngâm thêm cho đủ 15 đến 20 tiếng tùy theo từng loại. Cuối cùng, phải đãi 2 đến 3 lần nữa cho thật sạch, đảm bảo nước trong và không còn vương bất kì chút bụi nào.
Sinh ra tại làng Phú Gia, xã Phú Thượng, gia đình bà Thảo đã có ba đời gắn bó với nghề này. Bản thân bà đã được học phân loại gạo từ tấm bé. Ðể làm ra món xôi Phú Thượng dẻo, thơm phải rất kỳ công, kỹ lưỡng từ khâu chọn, vo gạo, đồ xôi. Tất cả các khâu, công đoạn đều phải rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng, chỉ cần sơ sẩy, hay làm ẩu một công đoạn nào thì chõ xôi đó coi như bị hỏng.
Theo các người nấu xôi giỏi, để có xôi ngon, quan trọng là nguyên liệu làm xôi phải chuẩn. Gạo nếp phải đích thực là nếp cái hoa vàng, chọn kỹ, đỗ, lạc cũng phải đạt tiêu chuẩn, lá gói xôi là lá sen hoặc lá chuối rửa sạch. Có được nguyên liệu đạt chuẩn mới chỉ là điều kiện cần, giai đoạn xử lý nguyên liệu và chế biến cũng quan trọng không kém và đòi hỏi nhiều kinh nghiệm.

Với người dân làng Phú Thượng, đồ xôi không quá khó, nhưng cần người cẩn thận, nhanh nhẹn. Khi đã làm quen tay, mỗi người lại có những bí quyết riêng. Về quy trình nấu xôi từ bao đời nay vẫn dựa theo một quy tắc, đó là gạo nếp trở thành những hạt xôi dẻo nhờ nấu chín bằng "hơi nước" hay còn gọi là phương pháp "cách thủy".
Khi cả thành phố vẫn chìm trong giấc ngủ say, hàng trăm hộ dân ở Phú Thượng đã sáng đèn, bắt đầu một ngày làm việc. Ai nấy đều tất bật chuẩn bị cho mẻ xôi mới. Nhà nhà đỏ lửa, những chõ xôi cỡ đại tỏa khói nghi ngút. Khoảng 5 giờ sáng, những chiếc ô tô, xe máy bắt đầu chở xôi thành phẩm tỏa đi khắp những nẻo đường của thành phố, phục vụ cho bữa sáng của người dân Thủ đô.
Nhớ về những kỷ niệm ngày xưa, bà Thảo chia sẻ: "Tôi bắt đầu làm từ lúc thời con gái, theo mẹ làm từ lúc 16, 17 tuổi. Bây giờ tôi 51 tuổi, 35 năm. Kỷ niệm nhớ nhất của tôi là đi bán xôi ở Bến xe Bến Nứa. Lúc bấy giờ thì tôi phải thổi xôi từ lúc 12 giờ đêm. 2 giờ sáng bắt đầu đi bộ, đi tầm 7 - 8 cây số để bán hàng".
Nghề nấu xôi ở Phú Thượng đã có hàng trăm năm nay. Từ nhiều năm trước, các cô, các bà thổi xôi bằng chõ đất, rồi đi bán rong dọc phố phường Hà Nội. Ngày nay người dân Phú Thượng vẫn tiếp nối truyền thống đó. Hơn nữa, kỹ thuật chế biến giúp xôi Phú Thượng không những dẻo thơm mà còn phong phú về chủng loại.
Phú Thượng bây giờ không còn nhiều dáng dấp, vết tích cổ kính thuở xưa, những căn bếp nhỏ, đỏ rực củi lửa và khói tro giờ đây đã nhường chỗ cho những nồi, bếp điện hiện đại, nhưng nét đậm đà, tinh tế và hồn cốt của xôi làng vẫn còn được người phụ nữ này gìn giữ nguyên vẹn trong các bí quyết nấu xôi được truyền lại từ bao đời nay. Ðiều đó giúp mang lại thu nhập ổn định cho người dân và phát triển kinh tế địa phương.
Với người Việt thì việc nấu xôi là đơn giản, nhưng sự đơn giản ấy nhiều khi cũng có bí quyết để rạch ròi chất lượng và phân biệt giữa các làng với nhau. Xôi Phú Thượng cũng vậy, vẫn theo cách cơ bản của việc đồ xôi của người Việt, nhưng lại có những nét riêng - mà người ta tạm gọi là bí quyết để cái mùi, cái vị có sự khác biệt với món xôi ở nơi khác.

Nấu xôi ngon chưa đủ, nguyên liệu gói xôi cũng được người dân làng Phú Thượng chọn lọc kỹ lưỡng. Mùa hè, xôi được gói vào lá sen, các mùa khác thì lại được gói vào lá dong hay lá chuối. Lá gói xôi như gợi nhớ đến các mùa trong năm, như gói cả tâm tình của người nấu về một món ăn dân dã quen thuộc hàng ngày.
Từ bao đời nay, người phụ nữ Việt Nam luôn gắn với hình ảnh tảo tần, chịu thương, chịu khó, có vai trò quan trọng trong việc giữ lửa gia đình. Đối với những người phụ nữ ở Phú Thượng, họ còn góp phần giữ gìn và phát triển cho làng nghề truyền thống, để rồi món ăn dân dã ấy đã trở thành nét ẩm thực bình dị và khó quên trong ký ức của những người yêu Hà Nội. Ở Phú Thượng, hầu như gia đình nào cũng coi nghề nấu xôi là nghề gia truyền, tối thiểu cũng có vài ba thế hệ nối nghiệp nhau làm nghề.
Trên mảnh đất Hà Thành, hình ảnh những đĩa xôi Phú Thượng không chỉ xuất hiện trong các mâm cỗ, người ta còn có thể bắt gặp những gói xôi thơm ngậy trên các vỉa hè, lề phố như một thức quà sáng dân dã, quen thuộc. Mỗi hàng xôi đều có đủ loại: từ xôi xéo, xôi đậu xanh, đến xôi lạc, xôi gấc, xôi ngô… Chỉ cần từ 5.000 - 10.000 đồng là thực khách đã có thể mua được một gói xôi Phú Thượng đầy đặn, thơm ngon mà no cả buổi.
Chia tay làng xôi Phú Thượng khi mặt trời tắt nắng, lúc này bếp mọi nhà đang đỏ lửa cho những chõ xôi dẻo thơm sớm mai. Có lẽ, chính tình yêu với nghề mà người Phú Thượng làm cho xôi ở đây có vị riêng để định vị giá trị, bảo vệ và phát huy giá trị làng nghề truyền thống với tư cách là một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Hàng ngày, hàng giờ, những chõ xôi Phú Thượng "ra lò" bất kể Xuân - Hạ - Thu - Đông, nhằm đem đến cho thực khách một món ăn, cũng chính là một thức quà dân dã, giản dị của mảnh đất Hà Nội văn hiến.
TIN LIÊN QUAN
Ý KIẾN
Trong nhịp sống hối hả ở đô thị, giữa bộn bề công việc và những lo toan thường nhật, nhiều phụ nữ Hà Nội vẫn tìm thấy sự an yên qua những công việc giản dị như học nữ công gia chánh và tỉa những bông hoa nhiều màu sắc từ những quả đu đủ.
Hà Nội có hơn 1.500 lễ hội, trong đó phần lớn diễn ra vào dịp đầu năm. Năm nay, nhiều lễ hội có sáng tạo mới, kết hợp công nghệ trong công tác quản lý, tổ chức mang đến trải nghiệm hấp dẫn cho du khách.
Cột cờ Hà Nội - biểu tượng lịch sử của Thủ đô đã mở cửa đón khách tham quan từ đầu năm 2025, thu hút sự quan tâm đặc biệt của người dân trong nước và du khách quốc tế.
Thời tiết mùa xuân đến báo hiệu một vụ lúa mới lại bắt đầu. Công việc dẫu có vất vả, nhưng bà con bao năm nay vẫn yêu nhịp sống trên những cánh đồng.
Chiếc quạt giấy Chàng Sơn truyền thống đã bắt đầu một hành trình mới, không chỉ là những nếp gấp mang theo làn gió mát, mà còn lan tỏa giá trị văn hóa lịch sử đến đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Trên những con phố trung tâm, trong những con ngõ nhỏ của khu phố cổ Hà Nội, các spa mọc lên như một điểm dừng chân quen thuộc, nơi người dân Hà Nội và du khách tìm đến để tái tạo năng lượng, chăm sóc sức khỏe và tận hưởng những giây phút an yên.
Là loài hoa đặc trưng của vùng Tây Bắc, nhưng từ lâu, hoa ban đã khoe sắc rực rỡ trên nhiều tuyến phố của Thủ đô Hà Nội.
Được bao quanh bởi hồ nước xanh mát, thung lũng hoa hồ Tây như một bức tranh sống động với muôn hoa đua nở. Du khách đến đây không chỉ để thưởng ngoạn cảnh sắc mà còn để cảm nhận sự yên bình và những khoảnh khắc sum vầy.
Giữa nhịp sống hối hả, thợ sửa khóa lưu động là “vị cứu tinh” khi chìa khóa thất lạc hay ổ khóa hỏng. Họ không ở cửa hàng cố định mà len lỏi khắp phố phường, sẵn sàng giúp đỡ mọi lúc, mọi nơi.
Những ngày này, Hà Nội đang chìm trong những cơn mưa phùn, sương lạnh giăng mịt mờ, nhưng chẳng vì thế mà những chồi non thu mình lại.
Giữa lòng Hà Nội náo nhiệt, làng đậu Mơ vẫn lưu giữ được hồn cốt của nghề truyền thống, không chỉ tạo ra những sản phẩm mang hương vị riêng biệt, mà còn là nơi truyền bí quyết giữ nghề từ đời này sang đời khác.
Một không khí hứng khởi, náo nức đang dần trở lại với nhịp sống của Thủ đô. Hàng trăm nghìn học sinh, sinh viên ở khắp nơi đã quay trở lại Hà Nội để bắt đầu cho một học kỳ mới.
Mỗi món ăn tại khu vực quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) đều gắn liền với công thức chế biến truyền thống, mang đậm hương vị đặc trưng của người Hà Nội, trong đó có cafe trứng - một trong những món đồ uống độc đáo của Hà Nội.
Sau Tết, sắc hồng rực của hoa đào dần tắt. Những gốc đào lại được đưa về vườn để chuẩn bị cho mùa Tết tiếp theo.
Nếu như tháng Chạp tất bật lo toan, hối hả vội vàng Tết nhất, thì Giêng Hai lại là khoảng thời gian thư thái chậm rãi hơn khi vụ lúa xuân cấy đã xong.
Sau Tết, dường như không có làng quê nào ở Việt Nam là không có lễ hội. Hội làng thường được tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, thiên nhiên tươi tốt, lòng người hân hoan.
Nằm giữa lòng khu phố cổ Hà Nội, nhịp sống trên phố Hàng Bồ (quận Hoàn Kiếm) là sự pha trộn giữa chậm rãi và hối hả. Tuy không quá nổi một gang tay, thế nhưng, đây lại là một con phố sầm uất, tấp nập của vùng lõi phố cổ Hà Nội với biết bao chồng lấp lịch sử, thời gian.
Giới trẻ Hà Nội luôn tìm thấy niềm vui và sự sôi động trong những buổi tối không ngủ. Từ những quán cà phê đến các con phố sáng đèn, đêm là thời điểm lý tưởng để họ thư giãn, giao lưu và khám phá.
Rằm tháng Giêng không chỉ là ngày lễ lớn trong văn hóa của người Việt, mà còn là dịp để nhiều gia đình sum vầy bên mâm cỗ chay, cầu mong một năm mới bình an, may mắn.
Nhiều ngôi làng ở ngoại thành Hà Nội vẫn có phong tục gói bánh cúng Rằm tháng Giêng. Không khí những ngày này cũng nhộn nhịp y như thời gian giáp Tết.
Trong không khí se lạnh của những ngày đầu xuân mới, tiếng trống nơi sới vật đã rộn ràng khắp trong thôn, ngoài xóm, thu hút mọi bước chân đổ về tổ Ngô Sài, huyện Quốc Oai, Hà Nội.
Tết Nguyên đán đã qua, nhưng với nhiều vùng quê nơi ngoại thành Hà Nội, không khí đón Tết vẫn còn, bởi người dân đang chuẩn bị cho việc đón Tết lại - một một phong tục đã tồn tại nhiều đời nay.
Giữa cuộc sống hối hả bộn bề công việc, sẽ có lúc ta bỗng dưng thèm trở về những ngày thơ bé. Hiện nay, nhiều quán cà phê tại Hà Nội lấy cảm hứng từ những căn tập thể cũ đang được các bạn trẻ quan tâm và thường xuyên lui tới.
Các thành viên của nhóm đạp xe Bon Bon không ngại cái lạnh, không nề hà sương sớm, tập trung đông đủ để cùng nhau chia sẻ thú vui đạp xe thưởng ngoạn vẻ đẹp của mùa xuân Hà Nội.
Nhịp sống Hà Nội đang dần trở lại thường nhật sau kỳ nghỉ Tết. Với những bài tập rèn luyện sức khoẻ từ buổi sáng sớm, tinh thần thể dục, thể thao hiện diện ở từng ngõ ngách của Thủ đô.
Thanh Lương (xã Bích Hòa, huyện Thanh Oai) có nghề làm bún, làm bánh cuốn lâu đời, cứ nối tiếp nhau, hết đời này sang đời khác. Những người làm bún thường làm từ sáng sớm, còn với riêng nghề làm bánh cuốn, chiều buông mới là lúc người dân bắt tay vào sản xuất. Nhịp sống của bà con nơi đây bao năm qua đều như vậy.
Xuất thân từ gia đình có truyền thống làm nghề mộc, hơn 50 năm gắn bó với nghề, nghệ nhân Hoàng Doãn Hòa đã tạo ra nhiều sản phẩm mộc độc đáo, trong đó có những sản phẩm đồ thờ mang đậm dấu ấn tâm linh.
Chiếc nón gắn liền với hình ảnh người nông dân Việt Nam thật thà, chất phác, qua bàn tay của những nghệ nhân làm nón tại làng Chuông (Thanh Oai) đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Nhắc tới Hà Nội là nhắc tới vẻ đẹp của những địa danh lịch sử, những danh lam thắng cảnh nổi tiếng với những con phố cổ kính rêu phong. Và đặc biệt không thể không kể đến hình ảnh một Hà Nội về đêm vừa thoáng đãng, bình dị nhưng không kém phần náo nhiệt.
Vì Nguyễn Bính viết “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay” mà người ta nhớ mưa phùn hay vì mưa phùn mà thơ Nguyễn Bính thành hay? Chỉ biết là mưa xuân - mưa phùn phủ lên mọi nỗi nhớ về Tết Hà Nội.
Hội làng là sợi dây gắn kết những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về phong tục tập quán của quê hương mình, cảm nhận được rõ nét hồn cốt văn hoá của dân tộc vẫn được nuôi dưỡng, gìn giữ qua hàng nghìn đời nay.
Mỗi nét chữ thư pháp đều gửi gắm biết bao hy vọng về một năm mới bình an, hạnh phúc. Nhiều người Việt vẫn luôn tin vào điều đó và thường tìm đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám để xin chữ đầu năm như một truyền thống tốt đẹp.
Sáng 3/2 (mùng 6 Tết), tại Trường Mầm non Tuổi Hoa, quận Thanh Xuân đã tổ chức phát động Tết trồng cây "Đời đời nhớ ơn Bác Hồ" Xuân Ất Tỵ năm 2025. Tới dự có Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Bí thư Quận ủy Thanh Xuân Bùi Huyền Mai.
Trong không gian đầy thơ mộng và huyền bí của Thủ đô, có một nghệ sĩ luôn tìm cách gom nhặt những khoảnh khắc để đưa Hà Nội vào trong từng bức tranh.
Trong hành trình du xuân đầu năm của rất nhiều người Hà Nội, đình đền chùa chính là nơi được nhiều người tìm đến để cầu an, cầu phúc, cầu may cho gia đình với mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến trong năm mới.
Những ngày đầu xuân Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, mặc dù lượng phương tiện tham gia giao thông vắng hơn ngày thường nhưng người dân đi du xuân vẫn nghiêm chỉnh chấp hành dừng đèn đỏ, đội mũ bảo hiểm... chấp hành nghiêm các quy định an toàn giao thông.
Đến Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam những ngày đầu năm mới Ất Tỵ, du khách không chỉ được vui chơi, tìm hiểu về phong tục đón Tết độc đáo của đồng bào trên khắp mọi miền Tổ quốc mà còn được thưởng thức những món đặc sản nổi tiếng, tiêu biểu cho ẩm thực Tết ở các vùng miền.
Nhà văn Nguyễn Trương Quý sinh năm Đinh Tỵ 1977, anh từng làm kiến trúc, viết báo, vẽ tranh trong hơn 20 năm qua. Đồng thời, anh cũng là tác giả của những cuốn sách khảo cứu, tản văn về Hà Nội nổi tiếng. Với sức viết đều đặn và dồi dào, Trương Quý là một cái tên rất quen thuộc trên văn đàn Việt Nam những năm gần đây.
Hà Nội đã trở thành đề tài quen thuộc với nhiều họa sĩ. Mỗi người họa sĩ đều có những cách nhìn và cảm nhận riêng về Thủ đô để phác họa nên bức vẽ của riêng mình. Mỗi nét vẽ không chỉ thể hiện tài năng mà còn gửi gắm trong đó tình cảm và sự gắn bó sâu sắc của người họa sĩ ấy với Hà Nội.
Sáng mùng 2 Tết (30/1), thời tiết ở Hà Nội rất đẹp, trời se lạnh và có nắng nhẹ. Yếu tố này dường như cộng hưởng để Tết Hà Nội thêm ấn tượng, nhất là đối với những người đã yêu và chọn Hà Nội để khám phá vào dịp Tết.
Để Phố Sách Hà Nội là điểm đến du xuân ý nghĩa, phục vụ nhân dân và du khách vào dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, Ban tổ chức đã lên phương án trang trí với các cổng chào, sân khấu, tiểu cảnh, cây xanh, ánh sáng…mang đậm nét xuân truyền thống.
Tết là để hội ngộ, sum vầy nhưng cũng là khoảng thời gian cả nhà bên nhau, để chơi chung các trò chơi dân gian, được hòa mình vào không khí Lễ hội.
Tết Hà Nội, mùa của niềm vui, của những bước chân xuôi ngược trên các con phố cổ kính, mùa của những hy vọng mới, những khởi đầu mới. Du xuân trong ngày Tết từ bao đời đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa và lối sống của người Hà Nội.
Sự hồi sinh kỳ diệu của làng đào Nhật Tân sau cơn bão cuồng phá là câu chuyện đầy cảm hứng về tình yêu và nghị lực của con người. Chỉ cần không ngừng cố gắng và tin tưởng, những điều tốt đẹp nhất định sẽ đến.
Những ngày đầu tiên của năm mới, văn hoá Tết của người Việt không thể thiếu đi những lời chúc bình an. Trong không khí đầm ấm của mùa xuân, những lời chúc đó trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết, mang theo sự chân thành, lòng biết ơn và những niềm hy vọng tươi sáng cho tương lai.
Chiếc bánh chưng xanh truyền thống phản ánh một phần lịch sử, kinh tế, văn hóa của dân tộc Việt Nam.
0