Lênh đênh đời thúng

Những miền ký ức tưởng lùi xa bất ngờ sống lại qua làn gió biển mặn, thuyền thúng bên gốc bần, sóng cũ, bãi cát dài và tiếng cười trẻ thơ, khiến những khoảnh khắc tuổi ấu thơ như chưa từng rời đi.

Làng chài nằm cuối dòng sông, cách cửa biển vài chục sải bơi. Dân trong làng đa số kiếm sống bằng việc theo nghề đánh bắt hải sản, chỉ còn số ít qua bãi bồi bên kia sông canh tác hoa màu và gieo sạ một vụ lúa trong năm nhờ vào nước trời.

Thuở bé, mỗi chiều muộn bọn trẻ con trong làng hay ra bến nước tắm táp, bơi lội, có đứa còn bám vào những chiếc thuyền thúng neo ở gốc bần, cây ngái sát mép nước. Những chiếc thuyền thúng tròn vành vạnh, chòng chành trên mặt sóng chở bao kỉ niệm và ước mơ những đứa trẻ làng chài da đen khét nắng. Còn nhớ, tôi và đám con nít cũng đôi lần được người lớn cho lên thúng chèo ra biển. Cảm giác vừa háo hức vừa lo lắng khiến chúng tôi khi thì lắc lư, cười đùa khi thì la hét, đòi quay vào bờ vì say sóng. Chèo thúng rất khó, cần khéo léo, muốn giữ cho thúng thăng bằng, không bị xoay tròn mà nhẹ nhàng lướt đi theo nhịp chèo là một quá trình học hỏi. Đặc biệt, khi thúng vừa rời khỏi bờ, gặp gió, nếu người chèo không vững để thuận theo chiều gió thì khả năng thúng bị đánh úp là rất cao. Tôi cũng từng nhiều lần điều khiển chiếc thúng không theo ý muốn để nhận ra rằng việc mưu sinh trên biển chưa bao giờ đơn giản. Để rồi tự bao giờ, hình ảnh những chiếc thúng quá đỗi thân thiết đã in sâu vào kí ức. Bởi nó gắn liền với đời sống những ngư dân, quanh năm lao động trên biển, cùng họ vượt qua bao lớp sóng.

Tôi là đứa trẻ lãng mạn, nhiều mơ mộng. Bãi cát dài trắng phau chạy dọc dưới rặng dừa cao là nơi tôi hay lui tới. Tôi thích dạo trên bãi cát, ngắm nhìn biển chiều xanh thẫm, dịu êm từng con sóng. Có khi tôi còn vòng quanh các con ngõ nhỏ đầy cát để cảm nhận rõ nhất nếp sinh hoạt của người dân làng chài. Những ngôi nhà mái thấp, tường trát xi măng thô sơ, trước khoảng sân ở nhiều nhà phơi lưới hay một vài chiếc thúng cũ, có chiếc đang trong giai đoạn hoàn thiện. Tôi nhìn những chiếc thúng  nghĩ đến hành trình sắp đến của nó trên biển cả mênh mông. Nghề thúng câu hoặc lưới giã chỉ đánh bắt gần bờ. Vào mùa giông, biển ẩn chứa nhiều bất trắc nhưng hải sản lại dồi dào. Thế nên, nhiều ngư dân đã bất chấp sự khuyến cáo của cơ quan chức năng về thời tiết mà lén ra biển trong đêm. Giữa màn đêm bao phủ, mỗi chiếc thúng là một ngư dân và ngọn đèn tín hiệu, trong khoảng cách vừa phải, họ lần lượt buông câu. Cứ thế, suốt đêm họ lặng thầm lao động, thành quả được biển cả bù đắp là những con mực, con cá để sáng sớm mai mang ra chợ bán.

Những chiếc thúng chòng chành trên sóng nước chẳng khác gì phận đời của người dân làng chài. Hầu hết họ sống phụ thuộc vào biển cả, quanh năm lênh đênh trên sóng nước, đối mặt với nhiều rủi ro. Nhưng hạnh phúc của người dân biển lại giản dị lạ lùng: trời yên thì tươi cười, gặp mùa giông bão thì thúng nằm úp bên bờ, ngư dân ngồi trên cát, mắt nhìn ra khơi mà lòng chùng xuống.

Đời thúng cũng như đời người làng chài… chòng chành, lênh đênh, lúc vơi lúc đầy, lúc lặng sóng lúc bão dông. Nhưng chưa ai rời bỏ biển, như chưa ai rời bỏ quê hương mình.

Ngày trước, thúng được đan bằng tre, quét hắc ín hay dầu rái, thậm chí có nơi còn dùng lá bồ lời trộn bột nhang để chống thấm. Thúng mộc mạc, bền bỉ, đôi khi rách gãy lại vá. Giờ đây thúng hiện đại hơn, thêm vật liệu mới, có cả động cơ. Người dân tiện lợi hơn, an toàn hơn, nhưng hình ảnh chiếc thúng tre cũ vẫn làm lòng ta chùng lại… Bởi đó là cả một thời lam lũ nhưng bình yên, một tuổi thơ đã lặn vào ký ức.

Có lẽ, một chiều nào đó trở về làng chài, bắt gặp những chiếc thúng nằm úp dưới tán cây bên lăng ông Nam Hải, được các họa sĩ trang trí rực rỡ… tôi sẽ chẳng thể ngăn được cảm giác xao xuyến. Bởi chúng không chỉ là phương tiện mưu sinh, mà còn là linh hồn của những con người gắn đời mình với biển.

Sơn Trần

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết

  • Quan tâm nhiều nhất
  • Mới nhất

15 trả lời

15 trả lời