Nàng dâu chưa kịp cưới

Năm nào cũng thế, khi khu chợ trước nhà tấp nập người bán buôn, tiếng bạn hàng gọi nhau í ới khi trời còn chưa sáng tỏ, góc mai ở bàn thiên chi chít đầy những nụ mới, cô chợt nghĩ đến nàng dâu hụt của bà mình, một trong rất nhiều người phụ nữ đã chịu nhiều mất mát hy sinh.

Sắp đến ngày giỗ của chú cô. Chú đã hy sinh vào đúng mùa xuân đại thắng năm 1975 khi vừa bước qua tuổi hai mươi hai. Mùa xuân năm đó, chú ngã xuống, mang theo lời hẹn với một người con gái...

Hồi bà tôi chưa mất, cứ đến những ngày lễ Tết của dân tộc, là bà thắp nén nhang trầm lên bàn thờ, rồi lần lượt lau từng bức ảnh đã ố vàng theo năm tháng. Tay và vai bà run run, có lẽ vì bà đã tuổi già sức yếu mà cũng có lẽ vì bà xúc động như đang chạm vào vùng ký ức xa xưa.

Ảnh minh hoạ: VnExpress.

Bà vẫn nhớ như in cái ngày chú mất. Bà kể năm đó, bà và các bà, các mẹ đang gói bánh tét để tiếp ứng lương thực cho các chiến sĩ xa nhà thì hay tin thằng út hy sinh. Buông thúng lá trên tay, bà chạy băng băng trong đêm lên ngã ba xã nhưng bị các chiến sĩ đồng đội của con chặn lại vì tình hình đang còn căng thẳng quá sợ giặc phát hiện.

Đồng đội của chú tôi kể lại, chú hy sinh trong một trận phục kích quân địch. Ngã ba xã cách nhà không xa lắm nên đêm đó chú tôi định ghé ngang về thăm và thưa với mẹ một chuyện quan trọng trước khi về đơn vị tiếp tục chiến dịch dài ngày. Bà hay nghẹn lại khi kể đến đó làm nước mắt tôi cũng rưng rưng. Tôi hay tưởng tượng nếu không hy sinh, chắc là chú tôi sẽ về ôm chầm lấy mẹ, rồi bà sẽ vuốt tóc và ôm đứa con trai mà bà nghĩ nó vẫn còn bé bỏng vào lòng trong đêm giao thừa khói hương trầm thoang thoảng.

Ảnh minh hoạ: TTXVN.

Cuối cùng thì chú tôi cũng được đưa về chôn cất gần nhà. Bà tôi vẫn nén đau thương tiếp tục làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Sát cánh cùng bà và các chiến sĩ còn có các cô gái thanh niên xung phong, trong đó có cô Út Huệ vẫn hay gọi bà là má.

Mãi đến năm 2010 khi huyện quy hoạch xây dựng nghĩa trang liệt sĩ thì chú tôi được bốc mộ đưa về nơi an nghỉ cùng đồng đội. Lúc này bà tôi cũng không còn, chứng kiến cuộc bốc mộ chỉ có ba tôi và đám cháu chưa hề biết mặt chú. Có một chuyện mà ai có mặt hôm ấy đều không khỏi rơi nước mắt đó là ngoài những xương cốt còn lại của chú, còn tìm thấy một cái ví da. Trong ví mọi thứ hình như đã cũ nát duy chỉ có tấm ảnh của một người con gái vẫn vẹn nguyên nụ cười tuổi đôi mươi trong sáng.

Ảnh minh hoạ: Internet.

Hơn ba mươi lăm năm sau, có một người phụ nữ đặt những cành hoa huệ trắng lên phần mộ của chú trong nghĩa trang. Còn nhớ khi tìm thấy ảnh của người con gái trong ví da của chú, anh em chúng tôi lần hỏi thăm tin tức nhiều nơi mới tìm được cô ấy.

Đó chính là cô Út Huệ ngày xưa với nụ cười mà anh em tôi lần đầu gặp đã nhận ra người trong bức ảnh. Cô vẫn ở vậy không lấy chồng, cô đang công tác trong một cơ sở thiện nguyện. Ngày xưa, cô ấy đã gọi bà tôi bằng một tiếng má là đã xác định suốt đời này làm con dâu của bà. Dù chưa chính thức nhưng trong lòng cô ấy thì chú tôi đã là chồng. Nếu như mùa xuân ấy chú tôi không hy sinh thì hai người đã cưới nhau và chắc bây giờ cũng đã có con đàn cháu đống.

Hằng năm lên nghĩa trang thăm chú vào ngày giỗ, tôi vẫn hay thấy có những cây hương còn cháy dở và một bó hoa huệ trắng đặt bên mộ. Mặc dù tôi không được nghe kể về tình yêu của chú nhưng tôi biết cô Út Huệ vẫn còn rất thương chú. Rất tiếc, chiến tranh đã khiến chú không thể trở về cùng với cô ấy, chú lỗi hẹn không về làm đám cưới mùa xuân!

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết
user image
user image
User
Ý KIẾN

Có một cô gái, cũng như bao người khác, cô có thể ngồi ở bên này gửi lời hỏi thăm một người bạn ở tận bên kia quả địa cầu, nhưng, nhiều hơn một lần, cô đã chọn chữ viết tay để tỏ bày. Những lần ấy, cô thấy lòng mình bay bổng như thể hái được đóa mây bồng bềnh rồi mê say đưa tay tung hứng.

Một buổi sáng tháng Tám, có người tỉnh dậy, trong tiết thu dìu dịu, cảm thấy tâm hồn thật khoan khoái, dễ chịu. Một cơn gió thật nhẹ thoảng qua cũng đủ đưa hương thị chín từ cây thị già góc vườn lùa vào cánh mũi phập phồng. Và bao ký ức về một mùa thu đong đầy yêu thương lại tràn về.

Mỗi độ thu về, có một người bỗng nhớ Hà Nội, quê ngoại yêu dấu của mình da diết. Mới đấy đã bốn mươi năm. Thuở ấu thơ, cô không bao giờ quên những lần về quê theo chân ông ngoại ra phố chơi, sà vào gánh hàng rong lạ lẫm, thưởng thức món cốm Vòng hương thơm ngọt dịu, thanh tao.

Có một người tự hỏi mình rằng tại sao lại yêu Hà Nội? Không biết, có phải vì Hà Nội dịu dàng mà cháy bỏng, đằm thắm mà mạnh mẽ, trong sáng mà quyến rũ, cổ điển mà hiện đại, có phải bởi vì Hà Nội khó đoán để cho người ta mãi nhớ, mãi thương?

Có người nói với tôi rằng cô ấy từng đọc rất nhiều câu chuyện mang đến sự ấm áp. Mỗi chúng ta sẽ có những suy nghĩ và cảm nhận riêng về sự ấm áp ấy. Còn với riêng cô thì sự ấm áp chỉ cần đến từ những điều đơn giản và bình dị trong cuộc sống của mình.

Có một người rời Hà Nội để theo chồng về Phú Thọ sinh sống vào một ngày cuối hạ. Điều mà cô luyến tiếc nhất là phải chia xa mùa thu Hà Nội, khi ấy đang cận kề. Không còn được nhấm nháp mỗi sáng gói cốm của bà lão ở cổng làng Vòng, không còn hoàng hôn đạp xe quanh hồ Tây se lạnh heo may, không còn cuối tuần ngắm màn lá vàng rơi thành thảm dày ở phố Hoàng Diệu…