Những lưu ý khi ăn quả hồng

Hồng là loại quả ngon, bổ có nhiều vào mùa thu. Tuy nhiên, có rất nhiều điều cần quan tâm khi ăn hồng mà có thể bạn chưa biết tới.

Quả hồng một trong các loại trái cây ngon có chứa nhiều vitamin A (cung cấp khoảng 3% lượng vitamin A mà cơ thể cần/ngày), vitamin C (cung cấp khoảng 12%), các chất xơ hòa tan (cung cấp khoảng 9,5%), khoáng như mangan (cung cấp khoảng 15%), đồng (cung cấp khoảng 12%) và đặc biệt là các hợp chất phenolic.

Hợp chất phenolic có tác dụng chống oxy hóa, chống ung thư, bảo vệ tim mạch, ngoài ra cùng với vitamin C, hợp chất phenolic còn có tác dụng ngăn ngừa hiện tượng lão hóa của tế bào. Tuy nhiên, một số người sau không nên ăn quả hồng vì nó có nhiều tác dụng phụ. 

Những người không nên ăn nhiều quả hồng

Người có lượng đường huyết cao

Nếu lượng đường trong máu của bạn cao, hoặc bạn là người mắc bệnh tiểu đường thì không thích hợp để ăn hồng. Quả hồng chứa một hàm lượng đường cao. Ăn cả quả hồng cũng có thể làm tăng đường huyết, vì vậy, người có lượng đường trong máu cao nên kiêng hoặc hạn chế ăn hồng.

Quả hồng chứa nhiều vitamin và khoáng chất có lợi cho sức khỏe nhưng không nên ăn quá nhiều.

Người thừa cân, béo phì

Như đã nói, đối với loại trái cây nhiều đường như quả hồng, bạn nên cân nhắc kĩ trước khi ăn, đặc biệt là trong quá trình giảm cân, bạn có thể sử dụng các loại trái cây khác để thay thế để tránh gây phản tác dụng và tăng cân trở lại.

Người có thể trạng kém

Đối với những người bị tiêu chảy, cơ thể suy nhược, phụ nữ sau sinh, người mới ốm dậy, người có chức năng dạ dày kém, viêm dạ dày mãn tính, khó tiêu… cũng không nên ăn quả hồng.

Người bị đau dạ dày

Quả hồng còn có chứa cả chất tannin – chất chát và chất pectin. Khi ăn hồng xanh hoặc chưa chín hẳn, sẽ thấy có vị chát.

Tannin và pectin là những chất làm săn niêm mạc ruột, ảnh hưởng nhu động ruột. Ăn quá nhiều, đặc biệt là lúc đói thì các chất này cộng với hàm lượng chất xơ tương đối cao trong quả hồng (100g hồng có 2,5g chất xơ) sẽ kết tụ dưới tác dụng của acid dạ dày dễ khiến khó tiêu, đầy bụng, thậm chí gây ra buồn nôn, nôn mửa… Nếu ăn nhiều sẽ bị vón lại, tạo thành khối bã ở khu vực ruột non, dễ dẫn đến tắc ruột.

Những thực phẩm đại kỵ với quả hồng, không nên ăn cùng nhau

Canh cua

Hồng và canh cua không nên ăn cùng nhau, chất tannin và các thành phần khác có trong quả hồng có thể làm cho chất đạm trong thịt cua kết tủa rắn lại, chất rắn đó lâu dần sẽ lưu lại trong ruột, lên men rồi thối rữa, từ đó gây buồn nôn, đau bụng, đi ngoài…

Thịt ngỗng

Thịt ngỗng là loại thực phẩm giàu protein chất lượng cao, khi gặp tanin trong quả hồng, protein này dễ ngưng tụ thành protein acid tannic, tích tụ trong dạ dày, trường hợp nặng có thể gây tử vong.

Hải sản

Tương tự như thịt ngỗng, các loại hải sản như mực, tôm, cua,… đều là thực phẩm giàu protein. Chúng cũng sẽ cùng tanin trong quả hồng kết tủa tạo cảm giác không mấy dễ chịu cho dạ dày. Nếu ăn hồng sau khi dùng hải sản có thể làm bạn bị đầy bụng, lạnh bụng, khó tiêu, nặng hơn sẽ hình thành sỏi trong dạ dày.

Khoai lang

Thành phần chủ yếu của khoai lang là tinh bột, sau khi được đưa vào dạ dày sẽ sản sinh ra một lượng lớn acid dạ dày, nếu lại ăn thêm một vài quả hồng, sẽ xảy ra phản ứng kết tủa dưới tác dụng của axit dạ dày. Khi các chất kết tủa này liên kết với nhau, sẽ hình thành sỏi không hòa tan, vừa khó tiêu hóa, lại không dễ đào thải ra ngoài, từ đó hình thành sỏi trong dạ dày, đe dọa sức khỏe của dạ dày một cách nghiêm trọng.

Lưu ý khi ăn hồng

Không ăn lúc đói

Ăn hồng lúc bụng đói dễ sinh thành sỏi. Do lúc bụng đói, chất tannin và pectin trong quả hồng khi ở môi trường a-xít của dạ dày sẽ kết tụ lại, các khối kết tụ này khi không xuống được ruột non sẽ lưu lại trong dạ dày và hình thành sỏi. Chúng sẽ gây tắc nghẽn tại đường tiêu hóa, gây ra các triệu chứng đau quặn bụng trên, nôn mửa hay thậm chí là nôn ra máu… nếu không được thải ra ngoài theo đường tự nhiên.

Không ăn vỏ hồng

Nguyên do vì phần lớn chất tanin trong quả hồng đều tập trung nhiều ở phần vỏ và dù bạn có cố gắng khử hết phần chát của quả hồng thì cũng không thể khử sạch tanin trong đó. Nếu ăn cả vỏ hồng sẽ nguy hại cho dạ dày vì tanin có thể hình thành bã, vì vậy bạn phải nhớ gọt sạch vỏ và chỉ ăn những trái hồng đã chín để bảo vệ cho sức khỏe của mình.

Không nên ăn vỏ hồng. Nếu ăn cả vỏ dễ hình thành sỏi trong dạ dày.

Không ăn khi uống rượu

Bạn có thể bị tắc ruột khi ăn hồng cùng lúc với uống rượu. Theo Đông y, quả hồng có tính hàn, còn rượu vị cay hơi đắng, tính nóng có độc.

Chất tanin trong quả hồng khi đi vào dạ dày gặp rượu sẽ tạo thành một chất sền sêt, dính nhầy, dễ kết hợp với cellulose tạo thành cục máu đông, vừa gây khó tiêu lại vừa không thải ra ngoài, để lâu ngày sẽ gây tắc ruột.

Tổng hợp

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết
user image
user image
User
Ý KIẾN

Thay đổi thời tiết, nhất là trong mùa đông - xuân, trời lạnh đột ngột là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến đột quỵ não gia tăng. Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tuần qua đã tiếp nhận nhiều bệnh nhân bị đột quỵ não khi còn trẻ.

Trong cuộc sống hiện đại, tình trạng đau lưng sau khi ngủ dậy dần trở nên phổ biến và trẻ hoá, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt hàng ngày. Vậy đâu là nguyên nhân và khắc phục thế nào cho hiệu quả?

Mùa đông tới gần mang theo không khí hanh khô cùng những cơn gió lạnh buốt đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của người cao tuổi. Bởi vậy, việc giữ ấm đúng cách vào mùa lạnh hanh khô không chỉ giúp bảo vệ sức khỏe cho người già mà còn phòng tránh được các bệnh lý nguy hiểm.

Rét đậm đã xuất hiện ở nhiều nơi, vùng núi cao có nơi dưới 10 độ C. Nhiệt độ xuống thấp dễ gây ra các bệnh về đường hô hấp, tim mạch, đột quỵ... Vì vậy, việc giữ ấm cơ thể là vô cùng quan trọng để bảo vệ sức khỏe, nhất là đối với người già, trẻ nhỏ.

Vào thời tiết lạnh, tỉ lệ đột quỵ có thể tăng 20-30% so với những ngày thời tiết bình thường. Mặc dù kiến thức của cộng đồng đã được nâng cao, tuy nhiên rất nhiều bệnh nhân nhập viện đã qua mất thời gian vàng trong điều trị.

Một nghiên cứu mới cho thấy những người thường xuyên ăn chocolate đen có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 thấp hơn. Kết quả được công bố trên trang BMJ ngày 5/12.