Nỗ lực hồi sinh tranh đỏ Kim Hoàng

Với sự góp sức của nhà nghiên cứu, sưu tầm Nguyễn Thị Thu Hoà cùng các vị cao niên trong làng, nghệ nhân Đào Đình Chung đã làm hồi sinh dòng tranh đỏ Kim Hoàng bằng một tấm lòng son với nghề truyền thống của làng sau hơn bảy thập kỷ dòng tranh này bị thất truyền.

Tranh Kim Hoàng là tên gọi của một dòng tranh dân gian xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 tại làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Khi mới bắt đầu hình thành, tranh dân gian Kim Hoàng nhanh chóng trở thành một sản phẩm ưa chuộng phục vụ nhu cầu chơi tranh Tết của đất Kinh kì.

Tranh Kim Hoàng là tên gọi của một dòng tranh dân gian xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 tại làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội

Nhắc đến tranh Tết, người ta thường nghĩ ngay đến tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống. Ít ai biết, Kim Hoàng cũng là một dòng tranh nổi tiếng xứ Kinh Kỳ xưa mỗi dịp Tết đến xuân về. Song, khác với hai dòng Đông Hồ và Hàng Trống, dù mai một ít nhiều thì vẫn có nghệ nhân theo nghề, biết nghề, tranh Kim Hoàng đã có đến hơn 7 thập kỷ biến mất hoàn toàn.

Kim Hoàng là một dòng tranh nổi tiếng xứ Kinh Kỳ xưa mỗi dịp Tết đến xuân về.

Giống tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng là dòng tranh dành cho giới bình dân, thể hiện những chủ đề quen thuộc với người dân nông thôn như tranh gà, tranh lợn, tranh ông Công ông Táo, tranh cuộc sống đồng quê…

Trên góc tranh Kim Hoàng còn có thơ đề và bùa trấn tà ma, điều mà tranh Hàng Trống và tranh Đồng Hồ không có, nhờ vậy mà phục vụ đa dạng hơn nhu cầu của người dân, từ trang hoàng nhà cửa đầu năm mới, cầu phúc lộc may mắn đến trấn trạch, xua đuổi tà ma.

Tranh Kim Hoàng là dòng tranh dành cho giới bình dân, thể hiện những chủ đề quen thuộc với người dân nông thôn.

Đầu thế kỷ 19, tranh Kim Hoàng phát triển mạnh nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915, khi cả làng bị ngập, nhiều ván in tranh vì thế bị nước lũ cuốn trôi. Sau trận lụt đó, nghề làm tranh dần mai một, đến năm 1945 thì cả làng Kim Hoàng không còn ai làm tranh.

Những tưởng số phận dòng tranh Kim Hoàng sẽ bị xóa sổ dưới lớp bụi thời gian. Tuy nhiên vào năm 2015, với sự góp sức của nhà nghiên cứu, sưu tầm Nguyễn Thị Thu Hòa - Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội, cùng các nghệ nhân cao tuổi trong làng, dòng tranh Kim Hoàng đã và đang hồi sinh từng ngày. Hiện tại làng Kim Hoàng chỉ có một người kế thừa duy nhất, đó là anh Đào Đình Chung (sinh năm 1978), một người con của làng.

Hiện tại làng Kim Hoàng chỉ có một người kế thừa duy nhất, đó là anh Đào Đình Chung (sinh năm 1978), một người con của làng.

Theo lời anh Chung kể, từ nhỏ đã nghe các cụ trong làng nói nhiều về dòng tranh cổ Kim Hoàng đã bị thất truyền. Không muốn một di sản quý giá của làng bị mất đi, bản thân anh muốn góp sức làm sống lại dòng tranh quê hương, đưa văn hoá làng mình hồi sinh trở lại. May mắn gặp được nhà sưu tập Nguyễn Thị Thu Hòa, anh Chung được hỗ trợ học tập, tìm hiểu, nghiên cứu.

Không muốn một di sản quý giá của làng bị mất đi, anh Chung đã học tập, tìm hiểu, nghiên cứu làm sống lại dòng tranh quê hương.

Anh Chung cho biết, tranh Kim Hoàng có khá nhiều điểm tương đồng với dòng tranh dân gian Đông Hồ ở vùng Kinh Bắc. Tuy vậy, nó cũng có những đặc điểm thú vị riêng. Chất liệu làm nên tranh Kim Hoàng không phải là giấy điệp như tranh Đông Hồ hay giấy gió của tranh Hàng Trống mà là chất liệu giấy đỏ hoặc giấy hồng. Vì thế mà tranh Kim Hoàng còn gọi là tranh đỏ.

Chất liệu làm nên tranh Kim Hoàng là giấy đỏ hoặc giấy hồng.

Nếu như trong tranh Đông Hồ, mỗi bức tranh có rất nhiều bản khắc gỗ, mỗi bản khắc lại tương ứng với một màu và một lượt in thì đối với tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ dùng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi từ đó mà tự do chấm phá màu sắc lên bức tranh theo cảm xúc và ngẫu hứng cá nhân của mình. Bởi vậy mà mỗi bức tranh là một phong thái riêng chứa đựng sự phóng khoáng và nét tài hoa riêng của mỗi nghệ nhân mặc dù chúng cùng in ra từ một bản khắc.

Đối với tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ dùng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi từ đó mà tự do chấm phá màu sắc lên bức tranh.

Tâm huyết và nặng lòng với dòng tranh quý của làng là vậy. Thế nhưng, nghệ nhân Đào Đình Chung vẫn luôn đau đáu, rằng để hồi sinh được tranh Kim Hoàng về thời kỳ hưng thịnh, nhất thiết cần đến sự chung tay của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ kế cận. Đây được xem là yếu tố quyết định trong toàn bộ quá trình phục dựng dòng tranh quý.

Nghệ nhân Đào Đình Chung truyền nghề cho thế hệ trẻ.
Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết
user image
user image
User
Ý KIẾN

Xuất phát từ tình yêu với những họa tiết cổ truyền và ký ức về những chiếc áo bông thời thơ ấu, nhà thiết kế Trịnh Bích Thuỷ đã đem câu chuyện của mình vào các thiết kế áo bông mang âm hưởng đương đại.

Sáng 11/12, Sở Văn hoá - Thể thao Hà Nội, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp tổ chức buổi tọa đàm “Triển khai các giải pháp thực hiện tuyên truyền về hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và xây dựng tiêu chí người Hà Nội thanh lịch, văn minh”.

Sinh ra và lớn lên ở làng rối nước truyền thống hơn 300 năm - làng Đào Thục (xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, đắm chìm trong không gian nghệ thuật này khiến nghệ nhân Nguyễn Văn Phi có duyên với những con rối. Hiện ông là người chế tác rối nước thủ công duy nhất của phường múa rối nước này.

Gìn giữ các loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, dân ca kịch... trong đời sống đương đại là trăn trở chung của những người làm nghề. Đáng mừng là giờ đây, các loại hình nghệ thuật truyền thống đã có lớp nghệ sĩ mới tài năng, kiên định với sứ mệnh gìn giữ tinh hoa dân tộc, trong đó có NSƯT Lộc Huyền, Trưởng đoàn nghệ thuật thể nghiệm - Nhà hát Tuồng Việt Nam.

Là một trong những nhà thiết kế theo đuổi con đường nhung, lụa thêu tay, nhà thiết kế Nguyễn Thơ Thơ đã dành nhiều tâm huyết để đưa chất liệu nhung, lụa Việt Nam lên một nấc thang mới. Hành trình ghi dấu phong cách riêng của mình trong làng thời trang Việt của cô gái trẻ là cả một sự nỗ lực để hồi sinh, đưa những sản phẩm nhung lụa thêu tay truyền thống đến gần với đời sống đương đại.

Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đã có những thời điểm làn điệu dân ca truyền thống của làng quê Xa Mạc (xã Liên Mạc, huyên Mê Linh) đứng trước nguy cơ biến mất. Trong bối cảnh đó, nghệ nhân ưu tú Nguyễn Ngọc Lược đã dành rất nhiều công sức và tự bỏ kinh phí để sưu tầm, truyền bá và làm "sống" dậy làn điệu chèo Xa Mạc. Ông được người dân nơi đây yêu quý gọi với cái tên - ông Lược Chèo.