Vị ngọt lòng bà

Mật mía loãng hương trong kí ức của tôi ngót nghét mười lăm năm, cũng là ngần ấy thời gian vắng bóng lưng còng của ngoại trong những trưa đổ nắng. Nhớ một thời mà ngày chỉ cần hai quả trứng luộc dầm trong tô nước mắm cũng đủ một bữa cho cả đại gia đình, thì mật mía của ngoại làm đã trở thành thức quà độ nhật. Nó là một món ăn tuổi thơ và mãi là đốm hồng trong kí ức của chúng tôi.

Chiều nay, mời bạn xuôi theo những dòng ký ức của bạn Nguyễn Trúc

Ngày nhỏ, mỗi độ nắng cuối tháng hai chớm hửng, đường quê lại xập xình mấy chuyến xe tải chất đầy mía tươi. Xe chở nặng, xóc nảy, phía sau rơi ra vài ba cây mía. Lũ trẻ thường chờ xe đi khuất rồi lò dò ra nhặt.

Mía tươi cầm chắc tay, trên thân còn phủ lớp phấn trắng. Mấy đứa lớn ngồi chồm hổm bên lề đường, dùng răng gặm mía. Đứa nhỏ hơn thì đem về cho bà, cho mẹ lấy dao bổ ra thành khúc. Tôi cũng chạy theo “mót” vài cây tròn lẳn đặt trước hiên, chộn rộn chờ ngoại về làm một món mật mía.

Cái thời mà đồ ăn nhanh là thứ gì đó xa xỉ, mật mía trở thành thức quà vặt khoái khẩu. Những cây nhặt về, ngoại chặt bỏ các mắt và phần ngọn để dành ăn riêng, phần thân gốc thì mang ra chỗ xe ép mía gần chợ để ép. Ngoại bảo phần gốc chứa nhiều đường, khi ép ra sẽ có màu vàng tươi đẹp mắt mà lại ngọt thanh. Còn phần ngọn lượng đường thấp hơn, ép ra sẽ ít ngọt và dễ chuyển sang màu vàng lục.

Nước mía ép về được ngoại chưng trong chiếc nồi gang trên lửa than tầm 10 tiếng. Ngoại bắc cái ghế đẩu cạnh bếp, dùng chiếc muỗng khuấy đều, vừa vớt bọt liên tục để mật được trong, vừa kể mấy câu chuyện thời kháng chiến ngày ngoại còn ở thanh niên xung phong. Ngoại bảo thời ấy khổ lắm, thành ra cái gì cũng phải tự làm, như mật mía, hay mấy thứ bánh bò, bánh in... Tôi tựa bên vai ngoại, nhìn bàn tay gân guốc đã lấm tấm đồi mồi thoăn thoắt khuấy mật. Chảo mật mía sôi bọt kêu ùng ục. Hương mật lẫn vào không khí, ướp cái vị ngọt lên chút nắng nhẹ ngoài thềm, hun nức mũi.

Sau khi chưng xong, Ngoại dùng tấm vải mỏng để lóng mật, bỏ bớt cặn bẩn. Thành phẩm được ngoại đong vào các lọ thủy tinh. Mật có dạng siro như mật ong, màu vàng óng và mang vị ngọt thanh đặc trưng. Chúng tôi thường quệt mật mía lên bánh tráng nướng để ăn lót dạ mỗi lần chờ cơm hoặc ăn kèm những ngày thiếu món.

Mật mía ngọt thanh mà không gắt.

Mật mía dùng để nấu chè thay đường, vừa thanh lại không gắt, làm những người không ham ngọt như ba cũng phải gật gù ăn cạn một chén đầy. Mật mía nhiều đường, nên giúp giảm đói. Ngày mà chỉ cần hai quả trứng luộc dầm trong tô nước mắm cũng đủ một bữa cho cả đại gia đình, thì mật mía của ngoại làm đã trở thành thức quà độ nhật. Nó là một món ăn tuổi thơ, là đốm hồng trong kí ức của chúng tôi.

Ngày chưa đủ lớn nhưng luôn cố tỏ ra trưởng thành, mấy món đồ ăn đóng gói dần thay thế mật mía thủ công, tôi không còn thích ngọt, cũng chẳng lò cò chạy sau xe tải nhặt mía trong những trưa chang nắng. Tới khi đủ lớn để mong bé lại, nếm qua đắng chát của cuộc đời, mới thấy trân trọng mùi vị ngọt ngào từ tay ngoại. Có lẽ đúng như nhiều người từng nói, bản chất của những kẻ hay mơ mộng là luôn thấy hoài niệm về những điều xưa cũ mình lỡ bỏ quên tại góc nhỏ nào đó trên đường đời. Tôi cứ hoang hoải đợi được tìm về ngày thơ bé, nhớ nhung cái mùi vị ngọt thanh từ mật mía ngoại làm tới cồn cào, bứt rứt.

Ảnh minh họa

Mật mía loãng hương trong kí ức của tôi ngót nghét mười lăm năm, cũng là ngần ấy thời gian vắng bóng lưng còng của ngoại trong những trưa đổ nắng. Đôi lúc thấy vài loại mật mía làm sẵn, tôi cũng háo hức mua về. Thế nhưng, chắc là cái bóng của ngoại trong tôi lớn quá, nên dù cùng công thức ấy, nhưng thứ ngọt ngào tôi nhớ nhung ngày nhỏ đã chẳng cách nào được nếm lại dù chỉ một lần.

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết
user image
user image
User
Ý KIẾN

Dường như hầu hết ở các làng quê Việt bây giờ, cùng với những thiết chế văn hóa được xây dựng khang trang, phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của người dân, thì cổng làng gắn với tên làng đã tạo nên nét riêng dáng dấp của một làng lưu dấu trong tâm khảm mỗi người. Những tên gọi của làng thường hàm chứa nhiều tầng ý nghĩa nhân văn sâu xa, mang cả ước vọng khát khao của cha ông một thuở lập làng với sự bình an, ấm no đầy đủ. Vì thế, danh xưng những tên làng cứ lưu mãi qua từng thế hệ…

Hà Nội đón tôi đương vào khoảnh khắc giao mùa. Gánh hoa loa kèn trắng tinh khôi tỏa mùi hương dịu nhẹ giao hòa trong làn gió nhè nhẹ khiến tâm hồn đa cảm thêm khắc khoải giao cảm với đời, để mênh mang thương nhớ hương vị cà phê Giảng - thức uống trở thành một phần thân thương, một phần văn hóa của Hà Nội phố.

Mẹ tôi không nghiện trầu cau nhưng mẹ vẫn trồng một giàn trầu xanh mơn mởn. Mẹ bảo nhà có giàn trầu mới ấm áp. Nhưng tôi hiểu mẹ đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu ân tình và cả nỗi nhớ về ngoại khôn nguôi.

Sống nhẩn nha giữa đời vội vã có thể chưa từng dễ dàng với chúng ta. Nhưng khi bước đi dưới những tán lá xanh xào xạc theo con gió, dưới bầu trời một màu ngăn ngắt xa xôi, tôi cảm giác hồn mình như cánh bồ công anh mảnh khảnh tự do bay mãi, chẳng nghĩ ngợi gì. Có những ngày như thế, những khoảnh khắc như thế. Chỉ cần im lặng hít thở thôi cũng đủ hạnh phúc.

Hà Nội với tôi là những thương nhớ đầu tiên từ hồi tôi đi thi đại học. Hà Nội đã lấy đi của tôi bao nhiêu nước mắt và còn là giấc mơ mà tôi chẳng thể chạm vào. Hà Nội là nhưng kỷ niệm của tôi khi biết người thương nhập viện, là khoảnh khắc thót tim khi đưa con ra cấp cứu viện nhi, là khoảnh khắc cháy lòng khi cha bệnh trọng. Và là khoảnh khắc đi chơi về muộn, thấy những người dân lầm lũi ngủ ngon lành nơi gầm cầu, trong lòng cống...

Trải qua các cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đất nước ta đã sản sinh ra những thế hệ thanh niên đại diện cho mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước. Như thế hệ làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu"; thế hệ một thời hoa đỏ 'xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước'; thế hệ 'sống bám đá đánh giặc, chết hóa đá bất tử' trong chiến tranh bảo vệ biên giới...