Mẹ tôi và những ngày mùa
Tôi nhớ những ngày mùa đông, rét tê tái, gió như con ngựa phi nước đại trên cánh đồng trơ trọi. Gió luồn bàn tay rét mướt của nó vào khắp các khe kẽ của những ngôi nhà tranh, những chái bếp trong làng.
Thóc ngâm không gieo được giữa cánh đồng nữa vì những thân mạ non nớt, mảnh dẻ không đủ sức chống chọi với thời tiết khắc nghiệt. Mẹ tôi phải lấy bùn từ dưới ao lên, đổ ra sân gạch, rồi xếp các viên gạch xung quanh làm bờ, cán bùn cho phẳng rồi gieo thóc giống đã nảy trắng mầm lên đó.
Mẹ vừa lo gieo mạ, vừa lo mua bán, sắm sửa, làm bánh làm trái sao cho gia đình có một cái Tết đủ đầy nhất có thể. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in khoảng sân xanh rì mạ non và những bộ quần áo mới mẹ mua cho chị em tôi vào mỗi dịp Tết đến.
Ra Giêng, khi không khí Tết vẫn còn phảng phất đâu đó trong những chiếc bánh chưng cuối cùng, những cánh hoa đào thưa thớt ngoài vườn và cái lạnh vẫn còn rong ruổi khắp nơi, mẹ tôi đã lại tất bật ra đồng.
Một mình mẹ gánh mạ, be bờ, lấy nước, cào cuốc rồi cấy hái. Ông bà tôi đã già, bố tôi quanh năm đi làm xa nhà. Mấy chị em tôi còn nhỏ, đâu đỡ đần được gì cho mẹ.
Những hôm mẹ ở đồng về khuôn mặt nằng nặng. Mẹ cúi mặt xuống ruộng cả ngày nên máu dồn xuống mặt. Hai bàn tay mẹ cũng to hơn, thô hơn thường ngày. Nhưng ở mẹ vẫn toát lên sự bình yên, vui vẻ.
Về đến nhà là gọi con, thủ thỉ hỏi han rồi cũng chẳng mấy khi ngồi yên, lại sà vào bếp hoặc bê chậu quần áo ra cầu ao ngồi giặt. Tôi còn nhỏ, chỉ biết và quen với việc mẹ tôi lúc nào cũng làm việc chứ nào có hiểu hết nỗi vất vả của mẹ.
Mẹ dậy từ 3,4 giờ sáng, ăn vội bát cháo đậu đen nấu sẵn từ tối hôm trước rồi sửa soạn liềm hái, quang gánh xong rồi mới vào lay tôi dặn dò rồi ra đồng. Tôi còn thèm ngủ, mắt nhắm mắt mở vâng vâng dạ dạ.
Tôi ăn xong ra đến ruộng thì nắng đã lên, mẹ một mình lúi húi cắt xong cả gần nửa ruộng. Mẹ mặc áo nâu, dáng hao gầy, lưng áo ướt đẫm mồ hôi, cái khăn che mặt dưới vành nón lá cũ cũng đẫm mồ hôi.
Thời đó, mượn được chiếc xe bò để kéo lúa cũng khó khăn vì cả xóm tôi chỉ vài nhà có. Mẹ tôi cứ kĩu kịt đồng xa, đồng gần hết gánh lúa này tới gánh lúa khác trong cái nắng hè như đổ lửa.
Nhà tôi neo người, có những buổi người làng về tránh nắng hết rồi mẹ tôi còn cố cắt nốt đám lúa dở. Thấy mẹ lâu về, tôi chạy ra ruộng tìm. Nắng hoa cả mắt, nắng đến nỗi lũ chim bình thường vẫn chao liệng trên đồng cũng vắng bóng, chỉ thỉnh thoảng xa xa đâu đó vẳng lên một tiếng lích chích rồi mất hút trong không gian yên ắng.
Trên cánh đồng mênh mông nắng chỉ còn bóng dáng lam lũ của mẹ tôi và tiếng liềm xoàn xoạt. Tự nhiên tôi thấy khóe mắt mình cay cay.
Ấy vậy mà vào những ngày gặt lúa, mẹ tôi vẫn không quên bắt về cho con khi thì cả xâu muồm muỗm cài ở vành nón, khi thì cả một xà cạp đựng đầy cua, có lúc một vài con ếch buộc rơm ngang bụng.
Lớn lên một chút, tôi biết cùng mẹ lấy lá xoan ủ làm phân, biết ra đồng rải phân cho mẹ trồng khoai. Khi dây khoai rạc đi cũng là lúc khoai dỡ được rồi.
Những củ khoai tây tròn lông lốc, củ bé như hòn bi, củ to bằng nắm tay em bé. Mẹ dặn tôi chọn khoai rồi phân loại. To để người ăn, khoai bi cho lợn, khoai nhỡ để giống. Cứ thế, mẹ dạy bảo tôi từ việc nhà tới việc đồng, đến cách nói năng, đi đứng.
Mẹ tôi lúc nào cũng vậy, luôn là ngọn lửa sưởi ấm căn nhà, sưởi ấm cuộc đời chị em tôi. Mỗi khi thấy mình còn thiếu sót với ai đó tôi lại nghĩ về mẹ. Tôi nghĩ mình chẳng cần học ai và học ở đâu cho xa xôi mà chỉ cần học mẹ. Đức hy sinh, sự quan tâm, thấu hiểu và sẻ chia của mẹ với những người quanh mình đủ để tôi tự hào và học hỏi suốt đời.
Có một người nhìn vườn thu qua ô cửa sổ, thấy cây lá reo vui, trái chín gọi mời. Mùi hương quen thuộc mỗi mùa thu lại dậy lên trong gió thoảng. Cây thị góc vườn, cây ổi bờ ao bao năm nay vẫn đúng hẹn đơm hoa kết trái để mỗi khi thu về lại lặng lẽ tỏa hương. Gió thu xao động, trái chín đung đưa.
Mùi hương hoa sử quân tử trong đêm mưa luôn dịu dàng ôm ấp tôi sau ngày dài mỏi mệt. Có một người cũng như tôi, vẫn nhìn thấy loài hoa quen thuộc ấy hằng ngày, thế mà phải vào một đêm mưa tan, cô ấy mới nhận ra hương thơm của sử quân tử có thể khiến người ta thấy bình an đến vậy.
Một ngày cuối hạ ở Tứ Xuyên, Trung Quốc, khi những tán cây ngô đồng dần trở nên vàng vọt, lòng một người không khỏi nao nao nhớ mùa thu Hà Nội. Đó cũng là lý do dẫu sống xa xứ nhưng người đó thường giữ thói quen quay trở về Hà Nội vào mùa thu. Cũng bởi, mùa thu trong ký ức của nhiều người Hà Nội có một hương vị rất riêng biệt, chẳng thể trộn lẫn với bất kỳ nơi nào.
Có một người ngồi trong quán nhâm nhi từng ngụm café. Nhìn ngắm không gian được bài trí theo lối cổ xưa, những vật dụng xưa cũ, những ký ức chợt ùa về. Những vui buồn, sung sướng hay khổ đau đều như một thước phim quay chậm từ từ hiện ra trong trí óc cô. Một bản nhạc không lời nhiều âm sắc khiến cô chầm chậm đi ngược dòng thời gian.
Có người thích ngắm hoàng hôn, những lúc ấy cô thấy hồn mình thật tĩnh lặng. Như rặng núi sau hè nhẹ nhàng chìm vào đêm tối, lối mòn nào bước chân cũng dần xa. Cô hay nhẩn nha, thật ra là không biết làm gì hơn, nhìn mông lung theo ánh nắng buông lơi qua thềm. Mặt trời lặn dần, bâng khuâng ngày khép lại. Ngày mai là một ngày mới, thì thôi đừng nhìn lại, thôi đừng nhớ chuyện đã qua.
Phố lúc nào cũng hối hả. Người vội vã đi làm cho kịp giờ. Người tất bật đón con lúc tan ca. Người chớp nhoáng bán mua. Người gấp gáp giao hàng. Đường tuy rộng mà chật chội, đông đúc. Nắng nóng, khói bụi, kẹt xe, ngập nước… liệu ra phố có gì vui?
0