Quê hương và mẹ

Người Việt dù đi đâu cũng chỉ muốn trở về quê hương, nhất là khi đã có tuổi. Đến lúc nằm xuống vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê, mong được trở về lòng đất quê, bởi có lẽ dường như trên quê hương, ta mới là ta.

Có một người bạn chia sẻ, bạn ấy vất vả thu xếp đưa mẹ ra Hà Nội để chăm sóc báo hiếu. Mặc dù, bạn đã tạo mọi điều kiện cho mẹ thoải mái nhưng mẹ vẫn ỉu xìu, suốt ngày cứ ngồi một chỗ. Đến bữa chả thiết ăn uống, đêm cũng cứ lục đục không ngủ. Bạn ấy đưa mẹ đi viện nhưng bác sĩ khám cho biết bà bị tác động tâm lí chứ không có bệnh. Cuối cùng, bạn ấy đành đưa mẹ về lại quê. Như là phép lạ, mẹ bạ ấy rạng rỡ hẳn lên, đi lại thoăn thoắt cứ như hồi còn trẻ.

Gia đình tôi cũng vậy, chúng tôi quyết định đón mẹ xuống ở cùng. Bởi mẹ đã già, và chồng tôi là con trưởng, các chị đều không ở gần. Lúc đầu mẹ rất vui vì được xuống Thủ đô cùng con cháu. Bà có cơ hội chăm chút cho các con các cháu từng bữa ăn. Sợ mẹ buồn, chúng tôi còn chuẩn bị cho bà cả quán hàng nhỏ, cốt để mẹ có chỗ giao lưu bạn bè hàng xóm mỗi khi con cháu bận đi học đi làm. Nhưng rồi, cũng chỉ được ba tháng, những chênh vênh trong nếp sinh hoạt của người già ở chung cùng người trẻ bắt đầu bộc lộ, và mẹ bắt đầu nhớ quê. Cuối cùng, ở với các con chưa được nửa năm, mẹ quyết định về quê, bởi không quen với nếp sống người thành phố. Tôi và chồng cứ lo, nỗi lo mẹ về quê già yếu không người chăm sóc, lỡ có bề nào. Nhưng cũng không có cách nào hơn, đành đưa mẹ về.

Tôi mang chuyện này kể với thầy, thầy tôi nói: “Hồi thầy còn trẻ và mẹ thầy cũng chỉ mới ngoài 60, mẹ ra Hà Nội thăm cháu đích tôn. Mẹ yêu cháu lắm nhưng được 1 tuần đã nằng nặc đòi về quê. Thầy đã cố nài nỉ và tìm cách giữ mẹ lại, một là để bà có thêm thời gian với cháu, hai là cũng muốn chăm sóc bù đắp cho cuộc đời quá khổ cực của mẹ. Nhưng rồi mọi nỗ lực đã thất bại. Mẹ của thầy vẫn quyết đòi về quê và bảo mẹ về rồi mẹ sẽ ra”. Lần thứ hai, mẹ của thầy đã ngót 80 tuổi, đã yếu và cần người chăm sóc. Thầy tôi lập kế hoạch đưa hẳn mẹ ra Hà Nội để chăm nom mẹ cho đến cuối đời. Thầy phải thuyết phục mẹ cả buổi sáng rằng mẹ phải đứng ra tổ chức đám cưới cho cháu đích tôn của mẹ vì cha đã mất. Cuối cùng mẹ thầy buộc phải đồng ý khi không thể khước từ lí do hợp lí đó.

Nhưng sau khi đã xong đám cưới cho cháu, bà cụ lại nằng nặc đòi về. Thầy tôi buộc phải nói thật với mẹ về hoàn cảnh ở quê rằng mẹ không có ai chăm sóc,  rằng nếu để mẹ một mình như thế nếu có chuyện gì thì thiên hạ sẽ chê cười con cái và các con cũng ân hận cả đời. Mẹ thầy nghe rồi im lặng. Từ đó bà cụ không đòi về quê nữa nhưng tính tình thì thay đổi hẳn. Bà hầu như không nói. Ăn uống thì uể oải và nằm suốt ngày. Có lần đi làm về không thấy mẹ đâu, thầy tôi hốt hoảng đi tìm thì thấy mẹ đang đứng ở phòng thờ trên tầng, mắt đăm đăm nhìn ảnh cha thầy trên ban thờ. Thấy thầy lên, mẹ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Vợ chồng thầy suy nghĩ mãi và cuối cùng đành bỏ dở kế hoạch. Rồi một ngày thầy nói với mẹ là tối nay sẽ đưa mẹ về quê. Thầy bảo, sau khi thầy nói thế, bà cụ vui hẳn, không còn đăm chiêu ủ dột như những ngày qua. Bà giục các con sắp đồ, ăn cơm để nhanh chóng về quê.

Sau những chuyện đã nghe và trải nghiệm, Hường thấy người Việt dù đi đâu cũng chỉ muốn trở về quê hương, nhất là khi đã có tuổi. Đến lúc nằm xuống vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê, mong được trở về lòng đất quê, bởi có lẽ dường như trên quê hương, ta mới là ta. Thầy tôi nói, đời thầy có nhiều cái tiếc nuối, nhưng thầy luôn bằng lòng về việc đã không ép mẹ mình phải xa quê. Thầy đã tìm cách để cha thầy trước đây và mẹ thầy sau này được sống và được ra đi trong căn nhà của mình, ngay tại mảnh đất của cha ông mình. Nghe câu chuyện của thầy, rồi nghĩ tới câu chuyện của mình, có lẽ tôi đã đúng khi để mẹ trở về./.

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết
user image
user image
User
Ý KIẾN

Có một người được sinh ra và lớn lên nơi mảnh đất phương Nam đầy nắng gió. Cô luôn ao ước được chiêm ngưỡng vẻ rêu phong cổ kính, được đắm mình trong tiết thu se sắt hay cái giá rét của ngày đông phố cổ, được ngắm nhìn những phụ nữ Hà Thành với nét duyên dáng đặc trưng của mình… Và rồi cô cũng có dịp đến thăm mảnh đất kinh kỳ với bao háo hức, mong chờ.

Thời tiết năm nay khác hẳn năm trước. Năm trước mưa thường ghé lúc chiều chiều, mưa từng hồi nặng hạt kéo theo nước dâng ngập lối. Năm nay mưa đỏng đảnh và bất chợt, cứ đến rồi đi, bất kể thời gian nào trong ngày. Mưa đi ngang tưới mát con phố nhỏ, mưa vô tình làm ướt góc sân mới hôm trước còn đắm mình trong cái nắng oi ả. Có người cũng quen dần với sự thất thường ấy của những ngày mưa.

Có một người nhìn vườn thu qua ô cửa sổ, thấy cây lá reo vui, trái chín gọi mời. Mùi hương quen thuộc mỗi mùa thu lại dậy lên trong gió thoảng. Cây thị góc vườn, cây ổi bờ ao bao năm nay vẫn đúng hẹn đơm hoa kết trái để mỗi khi thu về lại lặng lẽ tỏa hương. Gió thu xao động, trái chín đung đưa.

Mùi hương hoa sử quân tử trong đêm mưa luôn dịu dàng ôm ấp tôi sau ngày dài mỏi mệt. Có một người cũng như tôi, vẫn nhìn thấy loài hoa quen thuộc ấy hằng ngày, thế mà phải vào một đêm mưa tan, cô ấy mới nhận ra hương thơm của sử quân tử có thể khiến người ta thấy bình an đến vậy.

Một ngày cuối hạ ở Tứ Xuyên, Trung Quốc, khi những tán cây ngô đồng dần trở nên vàng vọt, lòng một người không khỏi nao nao nhớ mùa thu Hà Nội. Đó cũng là lý do dẫu sống xa xứ nhưng người đó thường giữ thói quen quay trở về Hà Nội vào mùa thu. Cũng bởi, mùa thu trong ký ức của nhiều người Hà Nội có một hương vị rất riêng biệt, chẳng thể trộn lẫn với bất kỳ nơi nào.

Có một người ngồi trong quán nhâm nhi từng ngụm café. Nhìn ngắm không gian được bài trí theo lối cổ xưa, những vật dụng xưa cũ, những ký ức chợt ùa về. Những vui buồn, sung sướng hay khổ đau đều như một thước phim quay chậm từ từ hiện ra trong trí óc cô. Một bản nhạc không lời nhiều âm sắc khiến cô chầm chậm đi ngược dòng thời gian.