Mùa Vu Lan nhớ mẹ
Mỗi sáng thức dậy, tôi nhớ tiếng gậy lộc cộc mẹ đi lại trong nhà. Mẹ thức từ sớm, có khi trằn trọc thâu đêm lúc trái gió trở trời. Mẹ làm việc nọ việc kia, đun sôi phích nước, lau quét bàn ghế, dù chúng sạch bong bóng loáng. Tiếng nhặt khoan đều đặn gõ vào nền gạch lâu ngày thành tiếng chuông báo thức cho cả nhà. Những ngày mẹ đi khỏi, trong chập chờn giấc ngủ mộng mị, tôi vẫn nghe đâu đó âm thanh quen thuộc, ngỡ mẹ còn hiển hiện đâu đây.
Mẹ trồng vài chậu rau trước hiên nhà. Mẹ lo lắng cho từng chiếc lá, vạch tìm từng con sâu, tưới cho chúng nước vo gạo. Không phụ lòng người chăm bón, chúng lớn nhanh. Mẹ cẩn thận cắt từng cọng, tự lặt, tự rửa, không cho ai động vào, loay hoay nấu nồi canh nóng hổi.
Khi con gái nhỏ của tôi xì xụp khen ngon, mắt mẹ lấp lánh: "Ngoại trồng đó". Có cây đinh lăng be bé, mẹ hái lá già phơi khô, góp nhặt đến khi hòm hòm rồi cắt vải may thành chiếc gối. Gối lá phát ra âm thanh sột soạt vui tai, tỏa hương thơm ngát, tôi hít hà như hít mùi hương quen thuộc của mẹ.
Mẹ sống một đời cần kiệm, là thói quen suốt quãng đời đói khổ, ăn bữa nay lo ngày mai, luôn suy tính cho con cái đủ no đủ ấm. Túi nilon còn mới mẹ xếp lại để lúc cần có dùng. Đồ cũ mặc hoài đến sờn vai sứt chỉ. Đồ con cháu mua mẹ để dành, rồi chỉ mặc khi đã nằm trong sáu miếng gỗ vô tri lạnh lẽo.
Tiết kiệm là vậy, nhưng mẹ rất hào phóng giúp đỡ, sớt chia cho người neo đơn, đói khổ. Mẹ nói: "Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn".
Buổi tối, mẹ uống sữa cho dễ ngủ. Mẹ luôn cất tiếng gọi: "Gà con ơi, uống sữa với ngoại không?". Con gái tôi nghe thấy, dù đang làm gì, cũng bỏ đó, lăng xăng chạy xuống, khi thì một ngụm, khi thì vài hơi, rồi cười khanh khách.
Mẹ không còn, con gái thút thít, con muốn uống sữa với ngoại. Vậy là con đem hộp sữa lên bàn thờ, mời ngoại, đợi một lúc con nói ngoại uống xong rồi, con mới đem xuống uống. Thỉnh thoảng con rơm rớm, con nhớ ngoại. Ngoại hay đút cơm con ăn, ngoại cột tóc cho con… đủ chuyện hàng ngày. Tôi ôm con căn dặn: "Mình không nhắc nữa, để ngoại thanh thản về miền mây trắng". Nhưng dù không nhắc, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng ngầm, khi thì âm ỉ, lúc lại cuồn cuộn trào dâng.
Tự lâu rồi, mẹ là chỗ dựa tinh thần cho tôi. Mỗi khi mỏi mệt, về nhà thấy mẹ, trò chuyện dăm câu khiến tôi nhẹ nhõm. Những lần rối rắm, nhận lời khuyên của mẹ, tôi từng bước trưởng thành.
Mẹ như kho kiến thức không bao giờ cạn. Mẹ nói, hồi đó nghèo quá, mẹ không được học hành tới nơi tới chốn, nhưng những đạo lý, cách đối nhân xử thế của mẹ, bao nhiêu sách vở cũng không sánh bằng.
Đến giờ, tôi vẫn đặt bàn thờ mẹ ở phòng khách như hồi mẹ mới mất. Để mỗi khi về nhà, mở cửa liền nhìn thấy nụ cười ấm áp của mẹ, đến thắp cho mẹ nén hương, kể với mẹ vài câu chuyện vu vơ. Để mỗi lần ra khỏi nhà vẫn chào, con đi chút rồi về như thuở mẹ còn.
Ngày mẹ mất, tôi dặn mình phải mạnh mẽ để mẹ ra đi thanh thản, nước mắt chỉ làm mẹ vướng bận mà thôi. Nhưng khi tiễn mẹ về với cát bụi rồi, đối diện với nỗi quạnh hiu, cảm giác mất mát thật khổ sở. Từng ngày trôi qua, từ ngoài ngõ đến trong nhà, nhìn đâu cũng thấy bóng hình của mẹ, mà thân ảnh mẹ đã không còn. Chiếc gậy mẹ chống, giường chiếu mẹ nằm, chiếc nón lá, những món đồ mẹ thường dùng vì thiếu hơi ấm của mẹ trở nên chơ vơ, lạnh lẽo.
Tôi nhớ cách đây vài năm, tôi vào bệnh viện lúc mẹ của cô em vừa mất, cô ấy gào khóc thê thảm khiến ai có mặt cũng lấy làm xót xa. Khi đó, dù đau lòng cho cảnh sinh ly tử biệt, tôi vẫn chưa biết nỗi đau mất mẹ to lớn đến dường nào. Đến lúc tự mình trải qua, tôi mới thấu hiểu. Và nhận ra rằng, dù bao nhiêu tuổi, dù ở gần mẹ bao lâu cũng không đủ. Càng ngưỡng mộ những ai còn có mẹ, thật diễm phúc biết bao.
Vừa rồi có người bạn hỏi tôi lâu nay có về quê không? Tôi ngơ ngác nhận ra rằng quê gắn liền với mẹ. Thuở học đại học và khi mới đi làm, mẹ ở quê, ngày nghỉ, lễ Tết tôi tranh thủ về quê với mẹ. Sau này đón mẹ lên sống cùng, những lần về quê là về với mẹ, đưa mẹ về thăm nhà cũ, thăm bà con họ hàng, ghé một quán quen ăn món mà mẹ nhớ, hay đơn giản là về quê để tìm kỷ niệm thời thơ bé, để khỏa khuây sau những mệt mỏi thường ngày, những lúc ấy luôn ấm lòng vì có mẹ kề bên.
Giờ đây, về quê, vẫn khung cảnh ấy, nếp nhà ấy nhưng có một nỗi trống vắng lạ thường, gặp người quen lại bồi hồi thương tiếc mẹ. Những chuyến về quê sau này, đã không còn như xưa. Vì một chỗ dựa, một chốn bình yên đã lặng lẽ hóa mây ngàn…
Có một cô gái, cũng như bao người khác, cô có thể ngồi ở bên này gửi lời hỏi thăm một người bạn ở tận bên kia quả địa cầu, nhưng, nhiều hơn một lần, cô đã chọn chữ viết tay để tỏ bày. Những lần ấy, cô thấy lòng mình bay bổng như thể hái được đóa mây bồng bềnh rồi mê say đưa tay tung hứng.
Một buổi sáng tháng Tám, có người tỉnh dậy, trong tiết thu dìu dịu, cảm thấy tâm hồn thật khoan khoái, dễ chịu. Một cơn gió thật nhẹ thoảng qua cũng đủ đưa hương thị chín từ cây thị già góc vườn lùa vào cánh mũi phập phồng. Và bao ký ức về một mùa thu đong đầy yêu thương lại tràn về.
Mỗi độ thu về, có một người bỗng nhớ Hà Nội, quê ngoại yêu dấu của mình da diết. Mới đấy đã bốn mươi năm. Thuở ấu thơ, cô không bao giờ quên những lần về quê theo chân ông ngoại ra phố chơi, sà vào gánh hàng rong lạ lẫm, thưởng thức món cốm Vòng hương thơm ngọt dịu, thanh tao.
Có một người tự hỏi mình rằng tại sao lại yêu Hà Nội? Không biết, có phải vì Hà Nội dịu dàng mà cháy bỏng, đằm thắm mà mạnh mẽ, trong sáng mà quyến rũ, cổ điển mà hiện đại, có phải bởi vì Hà Nội khó đoán để cho người ta mãi nhớ, mãi thương?
Có người nói với tôi rằng cô ấy từng đọc rất nhiều câu chuyện mang đến sự ấm áp. Mỗi chúng ta sẽ có những suy nghĩ và cảm nhận riêng về sự ấm áp ấy. Còn với riêng cô thì sự ấm áp chỉ cần đến từ những điều đơn giản và bình dị trong cuộc sống của mình.
Có một người rời Hà Nội để theo chồng về Phú Thọ sinh sống vào một ngày cuối hạ. Điều mà cô luyến tiếc nhất là phải chia xa mùa thu Hà Nội, khi ấy đang cận kề. Không còn được nhấm nháp mỗi sáng gói cốm của bà lão ở cổng làng Vòng, không còn hoàng hôn đạp xe quanh hồ Tây se lạnh heo may, không còn cuối tuần ngắm màn lá vàng rơi thành thảm dày ở phố Hoàng Diệu…
0