Nhà ở phố cổ

Chật chội, nhỏ hẹp là vậy nhưng phố cổ có lực hút gì mà vẫn “níu chân” nhiều người đến vậy? Thử bước chậm lại, rẽ vào những con ngõ, con hẻm ấy để tận mắt nhìn và cảm nhận cuộc sống của người dân phố cổ.

Phố Cổ - khi nhắc đến người ta thường nghĩ ngay tới cuộc sống tấp nập, sầm uất tại khu trung tâm của thủ đô Hà Nội "36 phố phường" và giá đất siêu đắt đỏ. Tuy nhiên, dọc trên khắp các con phố như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng Bông…, cứ cách vài mét lại có một con ngõ, con hẻm nhỏ tối tăm, sâu hun hút, bề ngang mặt tiền chưa đầy 1m, vừa đủ một người đi lại. Trái với vẻ ngoài sầm uất bên ngoài là cuộc sống chật hẹp bên trong. Nằm sâu trong hẻm của số nhà 107 Hàng Bạc, căn nhà của ông Nguyễn Phùng Hải còn đặc biệt hơn.

Vợ chồng ông Hải hàng chục năm qua vẫn sống trên căn gác xép nhỏ bé này
Chiều cao của gác xép không đủ để đứng thẳng lưng, nhưng hai ông bà vẫn sống ở đây từ nhiều chục năm

88 tuổi cũng là số năm ông Hải đã sinh sống tại ngõ 107 Hàng Bạc. Vợ ông - bà Sâm cũng đã dành cả tuổi thanh xuân của mình cùng ông Hải ở trên căn nhà có 7m2 dột nát, nơi từng là nơi sinnh sống của 4 thành viên gia đình ông bà. Có thể thấy, người dân phố cổ luôn tìm cách để trụ lại, chấp nhận sống cuộc sống bí bách, chật hẹp chỉ vì nơi đây gắn với nguồn thu nhập của gia đình. 

Chật chội, nhỏ hẹp là vậy, phố cổ có lực hút gì mà vẫn “níu chân” nhiều người đến vậy? Thử bước chậm lại, rẽ vào những con ngõ, con hẻm ấy, để tận mắt cảm nhận cuộc sống của người dân phố cổ.

Một góc căn nhà trên phố cổ, vừa là lối đi, vừa là bếp, vệ sinh...

Nhà là ngõ, ngõ là nhà, ông Nghĩa mỗi lần đi làm hay đi đâu về, lại phải đi qua phòng ở nhà các em trai, mới lên được nhà mình. Vì bề ngang nhà nhỏ quá không làm ngõ được, vào nhà nọ phải đi qua nhà người kia, bất tiện đấy, nhưng cuộc sống của gia đình 5 anh em trai ông Nghĩa vẫn diễn ra như thế, cả mấy chục năm nay.

Phố cổ có nét đặc trưng riêng biệt, độc đáo, lưu giữ từng hương vị của món ăn đất Hà Thành, lưu giữ từng nét văn hóa truyền thống nghìn năm của người dân mà chẳng thể đổi thay theo dòng chảy thời gian. Hai vợ chồng anh Thịnh chị Vy, đã 50 năm sinh sống và làm nghề vễ truyền thần tại số nhà 24 Hàng Đường. Gần 2 năm nay anh chị đã chuyển hẳn cửa hàng của mình ra ngoài phố cổ. Thế nhưng, với vợ chồng anh Thịnh chị Vy phố cổ có khổ, những vẫn lưu luyến lắm, khó mà dời hẳn được phố cổ.

Thế hệ 5x 6x 7x là vậy, người ta nói quá nhiều đến việc "dân phố cổ sống khổ lắm" khiến suy nghĩ này đã ăn sâu vào nhận định của rất nhiều người ở thế hệ ấy. Còn với những bạn trẻ sống ở phố cổ, thế hệ 8x 9x hay gen Z, được sinh ra và lớn lên ở phố cổ vẫn là thứ mà họ rất tự hào. 

Các bạn trẻ thích phố cổ bởi sự đông vui nhộn nhịp, tiện lợi. Còn với ông Hải bà Sâm cần sự yên bình, ông Nghĩa lại tự thưởng cho mình được sống rộng hơn khi con trai ra ở riêng. Cuộc sống sâu bên trong những con hẻm nhỏ, nơi người dân phố cổ sinh sống chật chội, chen chúc đối lập với sự nhộn nhịp ngoài đường phố. 

Những con ngõ, ngách nhỏ trên phố cổ đã tồn tại hàng trăm năm, việc cải tạo gần như là không thể, thế nên chỉ còn biết thích nghi. Với ông Hải bà Sâm chỉ mong một ngày nắng ráo, còn với ông Nghĩa thì khổ nữa vẫn chịu được. 

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết

user image
user image
User
Ý KIẾN

Tiếng nói người Hà Nội tựa như cánh chim bay dập dìu giữa trời, không bất ngờ lên bổng rồi hạ trầm đột ngột mà chỉ đơn giản nhẹ nhàng, chững chạc, vừa đủ gây thiện cảm cho người đối thoại để rồi lưu niềm yêu mến ngay lần gặp đầu và giữ kỉ niệm đậm sâu tâm trí.

Có một âm thanh chắc chắn đã in đậm trong kí ức của nhiều người Hà Nội thế kỷ trước – tiếng leng keng của tàu điện. Ngày nay, bóng hình những đoàn tàu điện chạy quanh Thủ đô đã nhường chỗ cho những phương tiện khác. Nhưng cách đây cả thế kỷ, tàu điện từng là loại phương tiện công cộng hiện đại bậc nhất. Dường như, tàu điện đã góp phần làm nên phong vị riêng có của mảnh đất kinh kỳ.

Không ai trong làng Chuông biết chiếc nón xuất hiện trong nét sống của họ từ khi nào. Nhưng xa xưa, trong ca dao đã có câu “Nón Chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ” thể hiện sự lâu đời của chiếc nón làng Chuông. Chiếc nón lá giờ đây không chỉ có tác dụng che nắng, che mưa, mà được nâng tầm thành một kỷ vật khi đến với Việt Nam. Dưới bàn tay khéo léo của những nghệ nhân làng Chuông, nón lá được cải tiến đa dạng, bắt mắt du khách. Và, một trong những người đã đem hình ảnh nón lá đi muôn nơi và được gọi bằng cái tên thân thương 'Đại sứ nón', chính là nghệ nhân Tạ Thu Hương.

Trong công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa Việt, đồ chơi và trò chơi dân gian ít được chú ý hơn cả. Phải chăng vì mải hòa nhập với thế giới hiện đại mà chúng ta quên mất một dạng di sản gắn liền ký ức tuổi thơ của các thế hệ trước đây? Và, đã đến lúc chúng ta cảm nhận được sự mất mát rất cơ bản do đồ chơi và trò chơi tuổi thơ đem lại. Đó là khoảng lặng tâm hồn từ vết nứt văn hóa của sự lãng quên, dù vô tình.

Chúng ta đang sống trong thời đại “kỷ nguyên số”. Ở bất kì nơi đâu chỉ cần một chiếc máy tính, một chiếc điện thoại hay máy tính bảng có kết nối internet là mọi người có thể thỏa sức tìm kiếm các thông tin trên báo mạng với tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Nhưng, đâu đó trong sự hối hả, vội vã của cuộc sống, chúng ta vẫn bắt gặp hình ảnh yên bình, những con người trầm tĩnh, thong thả nhâm nhi ly trà nóng mỗi buổi sáng với tờ báo giấy còn thơm mùi mực in trên tay.