Nỗ lực hồi sinh tranh đỏ Kim Hoàng
Tranh Kim Hoàng là tên gọi của một dòng tranh dân gian xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 tại làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Khi mới bắt đầu hình thành, tranh dân gian Kim Hoàng nhanh chóng trở thành một sản phẩm ưa chuộng phục vụ nhu cầu chơi tranh Tết của đất Kinh kì.

Nhắc đến tranh Tết, người ta thường nghĩ ngay đến tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống. Ít ai biết, Kim Hoàng cũng là một dòng tranh nổi tiếng xứ Kinh Kỳ xưa mỗi dịp Tết đến xuân về. Song, khác với hai dòng Đông Hồ và Hàng Trống, dù mai một ít nhiều thì vẫn có nghệ nhân theo nghề, biết nghề, tranh Kim Hoàng đã có đến hơn 7 thập kỷ biến mất hoàn toàn.

Giống tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng là dòng tranh dành cho giới bình dân, thể hiện những chủ đề quen thuộc với người dân nông thôn như tranh gà, tranh lợn, tranh ông Công ông Táo, tranh cuộc sống đồng quê…
Trên góc tranh Kim Hoàng còn có thơ đề và bùa trấn tà ma, điều mà tranh Hàng Trống và tranh Đồng Hồ không có, nhờ vậy mà phục vụ đa dạng hơn nhu cầu của người dân, từ trang hoàng nhà cửa đầu năm mới, cầu phúc lộc may mắn đến trấn trạch, xua đuổi tà ma.

Đầu thế kỷ 19, tranh Kim Hoàng phát triển mạnh nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915, khi cả làng bị ngập, nhiều ván in tranh vì thế bị nước lũ cuốn trôi. Sau trận lụt đó, nghề làm tranh dần mai một, đến năm 1945 thì cả làng Kim Hoàng không còn ai làm tranh.
Những tưởng số phận dòng tranh Kim Hoàng sẽ bị xóa sổ dưới lớp bụi thời gian. Tuy nhiên vào năm 2015, với sự góp sức của nhà nghiên cứu, sưu tầm Nguyễn Thị Thu Hòa - Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội, cùng các nghệ nhân cao tuổi trong làng, dòng tranh Kim Hoàng đã và đang hồi sinh từng ngày. Hiện tại làng Kim Hoàng chỉ có một người kế thừa duy nhất, đó là anh Đào Đình Chung (sinh năm 1978), một người con của làng.

Theo lời anh Chung kể, từ nhỏ đã nghe các cụ trong làng nói nhiều về dòng tranh cổ Kim Hoàng đã bị thất truyền. Không muốn một di sản quý giá của làng bị mất đi, bản thân anh muốn góp sức làm sống lại dòng tranh quê hương, đưa văn hoá làng mình hồi sinh trở lại. May mắn gặp được nhà sưu tập Nguyễn Thị Thu Hòa, anh Chung được hỗ trợ học tập, tìm hiểu, nghiên cứu.

Anh Chung cho biết, tranh Kim Hoàng có khá nhiều điểm tương đồng với dòng tranh dân gian Đông Hồ ở vùng Kinh Bắc. Tuy vậy, nó cũng có những đặc điểm thú vị riêng. Chất liệu làm nên tranh Kim Hoàng không phải là giấy điệp như tranh Đông Hồ hay giấy gió của tranh Hàng Trống mà là chất liệu giấy đỏ hoặc giấy hồng. Vì thế mà tranh Kim Hoàng còn gọi là tranh đỏ.

Nếu như trong tranh Đông Hồ, mỗi bức tranh có rất nhiều bản khắc gỗ, mỗi bản khắc lại tương ứng với một màu và một lượt in thì đối với tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ dùng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi từ đó mà tự do chấm phá màu sắc lên bức tranh theo cảm xúc và ngẫu hứng cá nhân của mình. Bởi vậy mà mỗi bức tranh là một phong thái riêng chứa đựng sự phóng khoáng và nét tài hoa riêng của mỗi nghệ nhân mặc dù chúng cùng in ra từ một bản khắc.

Tâm huyết và nặng lòng với dòng tranh quý của làng là vậy. Thế nhưng, nghệ nhân Đào Đình Chung vẫn luôn đau đáu, rằng để hồi sinh được tranh Kim Hoàng về thời kỳ hưng thịnh, nhất thiết cần đến sự chung tay của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ kế cận. Đây được xem là yếu tố quyết định trong toàn bộ quá trình phục dựng dòng tranh quý.

Nhà văn Nguyễn Trương Quý sinh năm Đinh Tỵ 1977, anh từng làm kiến trúc, viết báo, vẽ tranh trong hơn 20 năm qua. Đồng thời, anh cũng là tác giả của những cuốn sách khảo cứu, tản văn về Hà Nội nổi tiếng. Với sức viết đều đặn và dồi dào, Trương Quý là một cái tên rất quen thuộc trên văn đàn Việt Nam những năm gần đây.
Hà Nội đã trở thành đề tài quen thuộc với nhiều họa sĩ. Mỗi người họa sĩ đều có những cách nhìn và cảm nhận riêng về Thủ đô để phác họa nên bức vẽ của riêng mình. Mỗi nét vẽ không chỉ thể hiện tài năng mà còn gửi gắm trong đó tình cảm và sự gắn bó sâu sắc của người họa sĩ ấy với Hà Nội.
Sáng mùng 2 Tết (30/1), thời tiết ở Hà Nội rất đẹp, trời se lạnh và có nắng nhẹ. Yếu tố này dường như cộng hưởng để Tết Hà Nội thêm ấn tượng, nhất là đối với những người đã yêu và chọn Hà Nội để khám phá vào dịp Tết.
Sự hồi sinh kỳ diệu của làng đào Nhật Tân sau cơn bão cuồng phá là câu chuyện đầy cảm hứng về tình yêu và nghị lực của con người. Chỉ cần không ngừng cố gắng và tin tưởng, những điều tốt đẹp nhất định sẽ đến.
Gian bếp nhỏ của gia đình Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung trong một chiều cuối năm thật rộn ràng. Tiếng chị em í ới gọi nhau làm cỗ. Tiếng dao thớt lạch cạch vang lên. Tất cả tựa như một bản giao hưởng của thanh âm đầy gia vị và lôi cuốn.
Mỗi khi Tết đế xuân về, Hà Nội như khoác lên mình một chiếc áo mới rực rỡ sắc màu. Hòa chung bầu không khí nhộn nhịp và hối hả, người Hà Nội không chỉ đón Tết bằng những món ăn ngon mà còn lưu giữ những thú chơi mang đậm bản sắc văn hóa như thú chơi hoa, chơi tranh và cả thú làm mứt Tết.
0